Em thân mến,
Cuộc đời là một dòng chảy nghiệt ngã mà có khi ta phải vật lộn với nó để tìm lối thoát cho mình. Cứ như một sự tình cờ, chúng ta được hiện diện trong dòng chảy ấy để rồi từ đó chúng ta tận hưởng mọi nỗi sướng khổ buồn vui.
Em nặng lòng khi chia sẻ với tôi rằng em là một người đồng tính và em đang vật lộn với dòng chảy của phận người vốn đã khắc nghiệt lại càng nan giải cho số phận của em. Em là một người Công Giáo luôn thao thức và lắng nghe tiếng nói lương tâm để hành xử cho phải đạo. Tư cách là người Công Giáo ấy dường như càng làm cho em càng dằn vặt hơn. Em chia sẻ rằng em đang yêu một người cùng giới. Sức hút của tình yêu ấy có vẻ đang sôi sục trong em, chiến đấu với tiếng nói của luân thường đạo lý trong em. Tình yêu ấy cũng mang đến cho em nhiều nỗi sợ: em sợ kỳ thị của xã hội, em sợ xúc phạm tới Thiên Chúa. Tất cả những tâm tư ấy làm cho em đau khổ quá chừng.
Em thân mến,
Tôi cảm thông và tôn trọng em; dù trong hoàn cảnh nào đi nữa chúng ta luôn là những người bạn trong Chúa. Tôi là gì mà dám phán xét hay kỳ thị em? Tôi là ai mà có quyền cấm đoán em không được yêu hay được phép yêu một người nào đó? Tôi viết cho em lá thư này với tâm tình của một người bạn đang lắng nghe những nỗi niềm của em. Thế nhưng, trân trọng và yêu thương em là một chuyện đương nhiên; còn việc ủng hộ, tán thành cho lối sống đồng tính lại là chuyện khác. Chúng ta là người Công Giáo nên chúng ta tin rằng Chúa thể hiện ý của Người nơi những giáo huấn của Giáo Hội. Làm theo những gì Giáo Hội dạy, dù có khi làm chúng ta khó chịu, nhưng chắc chắn sẽ đưa chúng ta tới bến bờ hạnh phúc, vì Mẹ Giáo Hội chỉ luôn mong muốn cho con cái mình được sống bình an và triển nở trong tình yêu của Chúa mà thôi.
Em biết đấy, cả Giáo Hội và khoa học đều đã xác nhận rằng đồng tính không phải là một căn bệnh nên nó không có thuốc chữa trị. Hiểu nôm na, nó là những liên hệ giữa những người đồng phái, cảm thấy một sự hấp dẫn tính dục, độc chiếm hoặc vượt trội đối với nhau. Hiện tượng này đã có từ lâu trong lịch sử nhân loại chứ không phải là hậu quả của lối sống tục hóa ngày nay. Chẳng qua là khi con người sống cởi mở hơn thì những người trong cuộc mới dám khảng khái thừa nhận xu hướng tình dục của mình. Các nhà khoa học còn cho biết ngay cả ở động vật cũng có xu hướng này. Vì thế, em đừng nên mặc cảm vì có vẻ mình hơi “khác người bình thường” chỉ vì em bị rung động bởi một người cùng giới tính. Em vẫn là hình ảnh của Thiên Chúa, em vẫn là con cái của Người, vẫn được giá máu của Đức Kitô cứu chuộc, và vẫn được mời gọi để đồng thừa kế Vương Quốc vĩnh cửu của Đấng Tối Cao.
Nhưng em biết đấy, chẳng ai trong chúng ta là người hoàn hảo cả. Mỗi người sinh ra trong cuộc đời đều được trao cho một cây thập giá. Và để được thừa hưởng niềm hạnh phúc miên viễn của Thiên Chúa, chúng ta phải vác cây thập giá ấy lên tận đỉnh đồi cao như Giêsu đã làm. Đối với một số người, đó có thể là bệnh tật. Người khác có thể là bất hạnh trong gia đình. Người nọ có thể là nỗi cơ cực của kiếp mưu sinh… Hẳn là em cũng đồng ý với tôi rằng đâu phải ai yêu nhau cũng đến được với nhau, sống hạnh phúc với nhau trọn kiếp trọn đời, phải không? Đó cũng là một kiểu thánh giá dành cho họ. Chúng ta không có tự do tuyệt đối như Thiên Chúa, nên chúng ta phải chấp nhận những gì Tạo Hóa dành cho chúng ta. Gồng mình lên để kháng cự thì chỉ làm ta thêm đau khổ, còn xem nó là một “món quà”, thì ta sẽ dễ thở hơn rất nhiều, dù thật khó để có một thái độ như vậy. Vâng, thập giá là món quà em à, vì nó giúp chúng ta được nên giống Chúa. Xu hướng đồng giới của em đích thực là một thập giá, nhưng có bao giờ em nghĩ rằng đó cũng là một món quà chưa?
Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta rằng quan hệ tình dục đồng tính xúc phạm đến điều răn thứ Sáu trong Mười điều răn, và đi ngược lại mục đích của hôn nhân Kitô giáo. Giáo Hội yêu mến và cưu mang em, Giáo Hội cũng không thể bắt con tim của em ngừng yêu một ai đó, nhưng Giáo Hội buộc phải từ chối một kiểu hôn nhân và quan hệ tình dục đồng giới bởi vì nó “tự bản chất là vô trật tự. Chúng nghịch với luật tự nhiên. Chúng khép kín hành vi tính dục khỏi việc ban tặng sự sống. Chúng không phát xuất từ tính bổ sung thật sự về tình cảm và tính dục.” (Giáo Lý Số 2357). Hành vi tình dục phải được diễn tả trong môi trường hôn nhân có tình yêu để hướng đến việc trao ban sự sống. Thế nên, ngay cả những người dị giới mà quan hệ tình dục vô lối và ngoài hôn nhân cũng là điều không nên rồi.
Giáo Hội luôn hiểu cho hoàn cảnh của những người giống như em nên không ngừng căn dặn con cái mình rằng: “Một số không nhỏ những người nam và người nữ có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Đối với đa số những người này, sự nghiêng chiều vô trật tự một cách khách quan đó, là một thử thách. Họ phải được đón nhận với sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị. Phải tránh bất cứ dấu hiệu phân biệt đối xử bất công nào đối với họ. Những người này được mời gọi thực thi ý Chúa trong đời sống của mình, và nếu là Kitô hữu, họ được kêu gọi kết hợp các khó khăn của họ có thể gặp phải do hoàn cảnh của mình, với hy lễ Thập giá của Chúa.”(Giáo Lý số 2358). Lại một lần nữa, Giáo Hội nhắc đến khó khăn mà em đang trải qua là một kiểu thập giá. Gọi là thập giá bởi vì nó đòi hỏi em phải đánh đổi, phải chịu đau khổ, phải hy sinh, phải từ bỏ. Nhưng sẽ là vô ích nếu như em gánh chịu những điều này mà chẳng để làm chi. Giáo Hội khẳng định với em rằng chỉ cần em kết hợp thập giá này của em với thập giá cứu chuộc của Chúa, em cũng sẽ được sống hạnh phúc với Người trong Nước Trời.
Em đã rất can đảm khi mạnh dạn đương đầu với dòng chảy cuộc đời trớ trêu này. Hy vọng em cũng dám đối diện để đứng trên đôi chân của mình và mở lòng để ân sủng của Thiên Chúa đến với em. Giáo Hội kêu gọi em hãy “sống khiết tịnh. Các nhân đức giúp tự chủ sẽ dạy cho em biết sự tự do nội tâm, và có khi nhờ sự nâng đỡ của tình bằng hữu vô vị lợi, nhờ việc cầu nguyện và ân sủng bí tích, chính em có thể và dần dần cương quyết tiến đến sự trọn hảo Kitô giáo”(x. Giáo Lý số 2359).
Em có thể gào lên vì những bức bối dày xéo con tim hay vì những kỳ thị bất công của bao người nhìn về chính em! Con người có thể đối xử tệ bạc với em nhưng Chúa thì không bao giờ như vậy. Giáo Hội của Chúa luôn đón nhận, yêu thương và chăm sóc em, giúp em có được niềm hạnh phúc đích thực. Mục đích của tôi và của em trong dòng chảy cuộc đời này là gì nếu không phải là mưu cầu hạnh phúc mà Đấng là Tình yêu, là Đường và Sự thật có thể ban cho? Đường lối – Luật lệ của Thiên Chúa chắc chắn sẽ cho em một lối thoát cho những ách tắc của em lúc này. Chẳng phải Thiên Chúa ngay từ đầu đã tạo nên chúng ta là một giống loài thánh thiêng đó sao? Đối với Người, em thật quý giá biết bao dù em có thế nào đi chăng nữa. Ngay lúc này đây, Thần Khí Chúa vẫn đang hoạt động trong em, cho em được sinh sống, hít thở và mời gọi em bước tiếp trên đường lành. Mỗi người chúng ta đều lãnh nhận từ nơi Chúa một lời mời gọi. Có người được Người trao cho khả năng sinh sản để cho mặt đất này thêm phần hương sắc. Có người được mời gọi để sống khiết tịnh suốt cuộc đời. Em hãy luôn biết tin tưởng phó thác trong tình yêu của Người để vươn lên và sống trong dòng chảy tuy nghiệt ngã những thú vị này, em nhé!
Chúc em bình an và can đảm.
Phạm Đình Ngọc, S.J
Vấn đề ly dị và tái hôn trong Đạo Công Giáo (8)
Vũ Văn AnCông Đồng Vatican II
Đây không phải là chỗ để ta theo dõi các luận điểm của Công Đồng Vatican II một cách chi tiết (100). Nhưng ta có thể nhắc lại rằng sơ đồ thứ nhất về giáo huấn hôn nhân lúc đó đã bị bác bỏ và một sơ đồ khác đã được soạn thảo. Đức HY Dopfner chỉ trích sơ đồ thứ nhất là quá tiêu cực và quá nặng về phân tích luật học cũng như hiểu lầm về tình yêu vợ chồng, hơn nữa, đã đặt sự kết hợp bản thân vào hàng thứ yếu: “Nhưng tình yêu vợ chồng, trong chính trật tự khách quan và theo ý định của Thiên Chúa, há đã không, một cách nào đó, tạo ra chính mô thể (form) và linh hồn của hôn nhân đến nỗi nếu không có tình yêu phu phụ thật sự, thì các mục đích của hôn nhân không thể nào quan niệm được và cũng không thể nào đạt được đó sao?” (101).
Đức HY Alfrink chỉ rõ: người Công Giáo nói về hôn nhân cách khác hẳn với nghĩa luật học theo kiểu nói mục đích đệ nhất và đệ nhị đẳng. Một số nói đến hôn nhân chỉ như một khế ước, người khác nói về nó theo ngôn ngữ tâm lý học, một ngôn ngữ nhân bản, thần học và thánh kinh, như một chia sẻ cuộc đời bởi hai con người nhân bản yêu nhau và tìm cách đem những đứa con vào đời. Ngài đặt câu hỏi: “Phải chăng hôn nhân chỉ là một khế ước?”. Người ta thấy rõ: các nghị phụ, trước nhất, không nghĩ tới ly dị nhưng nghĩ tới một lối giải thích hợp thời và mang nhiều ý nghĩa hơn đối với bản chất của chính hôn nhân.
Bản thảo hiến chế Vui Mừng Và Hy Vọng từng cho thấy một sự thay đổi trong lối hiểu hôn nhân. Nó không còn chỉ là một dụng cụ, một phương tiện, nhưng bản chất của giao ước bất khả tiêu giữa hai con người, và nhất là thiện ích của con cái đòi họ phải yêu nhau thật sự. Tính đơn nhất bất khả tiêu tự nhiên của hôn nhân được ơn thánh của bí tích củng cố, như lời Công Đồng Trent dạy.
Trong cuộc tranh luận về Vui Mừng Và Hy Vọng, bản văn sửa đổi giữ lại lối giải thích duy nhân vị về hôn nhân và nhất định từ khước việc nói rằng sinh sản và giáo dục con cái là mục đích đệ nhất đẳng của hôn nhân. Như thế, nó cũng tỏ ý hoài nghi, không coi việc trao đổi quyền được làm các hành vi tính dục như đối tượng của việc ưng thuận kết hôn. Nó không đặt tính bất khả tiêu trong ngữ cảnh một khế ước không thể nào mất hiệu lực. Nó nhấn mạnh tới việc tình yêu vợ chồng có một thế đứng chủ yếu trong giao ước hôn nhân. Không có lời phản đối nào có ý nghĩa đối với điều được Vui Mừng Và Hy Vọng nói về tính vĩnh viễn và bất khả tiêu của hôn nhân. Trong bản văn cuối cùng, hôn nhân được gọi là: “tương ước thân mật về đời sống và tình yêu lứa đôi… bắt rễ trong giao ước vợ chồng về một ưng thuận bản thân không thể thu hồi. Bởi thế, do hành vi hai người phối ngẫu trao ban và tiếp nhận lẫn nhau, một liên hệ đã phát sinh mà do thánh ý Thiên Chúa cũng như dưới mắt xã hội vốn là một liên hệ vĩnh viễn” (102).
Như thế, tính bất khả tiêu được định vị trở lại trong hôn nhân. Sự ưng thuận hỗ tương, tức hành vi giao ước, tạo ra hôn nhân. Sự ưng thuận đó không thể nào thu hồi được. Hai người phối ngẫu trao chính con người họ cho nhau. Các nhà kinh viện vốn dựa vào luật tự nhiên để biện luận cho tính vĩnh viễn của hôn nhân bằng cách trước nhất nại tới thiện ích của con cái. Còn ở đây, các vị giám mục nại tới sự kết hợp trong hôn nhân đầu tiên. Việc tự hiến thân này đòi phải có lòng chung thủy nơi vợ chồng và tính bất khả tiêu nơi việc kết hợp (103).
Bộ Giáo Luật Năm 1983
Ngày 25 tháng Giêng năm 1959, ngày Đức Gioan XXIII công bố việc triệu tập Công Đồng Vatican II, ngài cũng công bố việc tu chính Bộ Giáo Luật. Việc này đòi Công Đồng phải họp trước và được coi như một bổ túc cho Công Đồng. Việc tu chính này khởi đầu năm 1966 và sau cùng đã được công bố ngày 25 tháng Giêng năm 1983.
“Điều 1055 #1: Giao ước hôn nhân giữa hai người rửa tội, qua đó, một người đàn ông và một người đàn bà thiết lập ra giữa họ một tương ước suốt đời, và từ chính bản chất riêng của nó, vốn được sắp đặt cho phúc lợi của hai người phối ngẫu và cho việc sinh sản và dưỡng dục con cái, đã được Chúa Kitô, Chúa chúng ta, nâng lên hàng bí tích. #2. Do đó, một khế ước hôn nhân thành sự không thể nào hiện hữu giữa hai người rửa tội mà không là một bí tích do chính sự kiện trên.
Điều 1056: Các đặc điểm yếu tính của hôn nhân là tính đơn nhất và tính bất khả tiêu; trong hôn nhân Kitô Giáo, các đặc điểm này nhận được một sự bền vững rõ rệt nhờ chính tính bí tich này.
Điều 1057 #1: Hôn nhân hiện hữu là do sự ưng thuận, được tỏ bày cách hợp lệ, bởi những người có khả năng về luật pháp. Sự ưng thuận này không thể do bất cứ quyền lực nhân bản nào cung cấp. #2. Sự ưng thuận vợ chồng là một hành vi của ý chí qua đó, một người đàn ông và một người đàn bà nhờ một giao ước không thể thu hồi đã hiến thân và chấp nhận lẫn nhau vì mục đích thiết lập ra cuộc hôn nhân” (104).
Việc đáng lưu ý là Điều 1055, ở câu đầu, nói rằng hôn nhân là một giao ước, nhưng ở câu sau, lại nói là một khế ước. Rõ ràng Giáo Hội muốn duy trì lý thuyết cổ truyền theo đó, hôn nhân là một khế ước nhưng cũng nhấn mạnh tới việc nó cũng là một giao ước giữa hai người phối ngẫu. Không có sự thay đổi nào trong lối hiểu của Giáo Hội về đặc điểm của hôn nhân; tính bất khả tiêu đã được khẳng định rõ ràng. Trong Điều 1057 #2, người đàn ông và người đàn bà tạo nên cuộc hôn nhân của họ bằng việc hiến thân hỗ tương cho nhau, như thế phù hợp với giao ước hơn là một khế ước về việc trao đổi quyền tính dục, như bộ giáo luật cũ. Sau cùng, không thấy nhắc gì tới mục đích đệ nhất và đệ nhị đẳng, mà chỉ nhắc tới hai mục đích, “phúc lợi của hai người phối ngẫu và việc sinh sản và dưỡng dục con cái”. Công thức của điều 1055 không nhắc gì tới hiệp thông tình yêu thân mật: “Không có điều gì trong câu này mà từ đó có thể rút ra kết luận này là tình yêu vợ chồng mà biến mất khỏi hôn nhân, thì chính cuộc hôn nhân cũng biến mất” (105). Điều 1057 #2 xác định rằng tính vĩnh viễn của hôn nhân phát sinh từ giao ước không thể thu hồi của vợ chồng.
“Điều 1134: Từ cuộc hôn nhân thành hiệu, phát sinh ra một dây liên kết giữa hai người phối ngẫu; sợi dây này từ bản chất của nó, có tính vĩnh viễn và độc chiếm. Mặt khác, trong cuộc hôn nhân Kitô Giáo, hai người phối ngẫu được củng cố nhờ một bí tích đặc biệt và như thể họ được cung hiến cho các bổn phận và phẩm giá bậc sống của họ”.
Sự ưng thuận vợ chồng tạo ra dây hôn phối, một sợi dây độc chiếm và vĩnh viễn. Điều này càng quan trọng để ta hiểu tính bất khả tiêu. Một số người cho rằng nếu tình yêu tàn lụi thì hôn nhân cũng nên kết liễu hay thực sự đã kết liễu rồi. Ở đây, Giáo Hội dạy rằng không phải như thế. Nếu hiệp thông cuộc đời, tức việc chia sẻ, biến mất, thì sợi dây kia vẫn tồn tại vì đã được sản sinh ra từ việc ưng thuận lúc ban đầu. Cuộc hôn nhân vẫn còn đó.
Buckley (106) gợi ý rằng Thomas P. Doyle trong cuốn chú giải Bộ Giáo Luật năm 1983 (107) đã định nghĩa dây hôn phối là “thực tại hữu thể hiện hữu giữa hai con người từng trao đổi sự ưng thuận vợ chồng”. Ông cho rằng “Đây là một thực tại bước vào hiện hữu qua lời ưng thuận, nên việc hiện hữu của nó không còn tùy thuộc ý muốn của riêng hai người phối ngẫu nữa” (tr. 776). Doyle nói thêm: khi Giáo Hội đạt được năng quyền đối với hôn nhân vào thời Trung Cổ, cái hiểu về sợi dây này thay đổi từ việc coi nó chỉ như một trói buộc luân lý qua việc coi nó như một thực tại biệt lập, một điều không thể bị kết liễu, hơn là một điều không nên kết liễu (tr.808). Mặt khác, Ladislas Orsy (108) kết luận rằng xét về phương diện triết học, không thể nói tự nó, sợi dây này hiện hữu. Nó chỉ là một sản phẩm của luật lệ: “Trong trường hợp hôn nhân bí tích, chính Thiên Chúa ban cấp cho sợi dây này một chiều kích đặc biệt đầy ơn thánh… Khi Giáo Hội chấm dứt sự trói buộc đầy ơn thánh này qua việc miễn chuẩn khỏi sợi dây hôn phối chưa hoàn hợp, một cách đơn giản, Giáo Hội đã giải thoát người ta nhân danh Thiên Chúa, nhờ một quyền lực do Thiên Chúa ban, khỏi một vinculum, một “sợi xích”, trói buộc chàng hay nàng”.
Sách Giáo Lý nói rõ: “Như thế, sợi dây hôn phối đã được chính Thiên Chúa thiết lập một cách khiến cho cuộc hôn nhân do hai người đã rửa tội ký kết và hoàn hợp không thể nào bị tiêu hủy. Sợi dây này, vốn phát sinh từ hành vi nhân bản tự do của vợ chồng và sự hoàn hợp hôn nhân của họ, là một thực tại, từ nay không thể thu hồi, và phát sinh ra một giao ước được lòng thủy chung của Thiên Chúa bảo đảm. Giáo Hội không có quyền làm ngược lại sự sắp xếp khôn ngoan này của Thiên Chúa” (109).
Buckley cho rằng sợi dây bí tích được định nghĩa là thuộc một trật tự hoàn toàn khác với sợi dây tự nhiên nhưng cả các nhà thần học lẫn huấn quyền đều không thể nói rõ sự phân biệt thoả đáng khi đụng tới tính bất khả tiêu vì mọi cuộc hôn nhân đều được coi là bất khả tiêu. Giáo luật chỉ nói một cách đơn giản rằng trong trường hợp hôn nhân bí tích, tính bất khả tiêu đã được tăng cường.
Còn tiếp