Chứng từ của đời Thánh Hiến

CHỨNG TỪ CỦA ĐỜI THÁNH HIẾN

 

Mở đầu Tông thư gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp “Năm Đời Sống Thánh Hiến 2015”, ĐTC Phan-xi-cô viết: “Tôi viết cho anh chị em với tư cách là Người kế vị thánh Phê-rô, đã được Chúa Giê-su uỷ thác nhiệm vụ củng cố anh em trong đức tin (x. Lc 22, 32), và tôi cũng viết cho anh chị em như một người tận hiến giống như anh chị em.” Dựa theo ý hướng đó, Hội Đồng Giám Mục VN ban hành “Gợi ý mục vụ cho “Năm Tân Phúc-âm-hóa đời sống Giáo xứ và Cộng  đoàn”, với chủ đề cho tháng 3/2015: GIÁO XỨ – CỘNG ĐOÀN THỪA SAI VỚI CHỨNG TỪ CỦA ĐỜI THÁNH HIẾN “Hài nhi càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2, 40).

 

Thử tìm hiểu xem “tận hiến” (hay “thánh hiến”) là gì và làm sao để có “chứng từ của đời Thánh hiến”?

 

I- TẬN HIẾN LÀ GÌ?

 

Tận hiến được dịch từ nguyên ngữ La-tinh “consecratio totalis”, có nghĩa là cho hết cả, dâng hết cả, không giữ lại chút gì (tận: tận cùng, hết cả; hiến: dâng, biếu, cho). Tận hiến bao hàm ý nghĩa dâng hiến một người, một cộng đoàn cho Thiên Chúa để Người thánh hóa cho nên hoàn thiện. Do đó cũng gọi là thánh hiến.

 

Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng “Evangelii Gaudium” (số 44) giải thích rõ: “Người Ki-tô hữu tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên của Phúc Âm qua lời khấn hay qua những ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng; nhờ đó họ hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa chí ái, để phụng sự và làm vinh danh Ngài với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ phép Thánh Tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến cho Thiên Chúa; nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy, người Ki-tô hữu muốn nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên của Phúc Âm trong Giáo Hội, thoát ly khỏi những ngăn trở có thể làm họ không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo; và họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình hơn.”

 

II- AI ĐƯỢC THÁNH HIẾN?

 

Đời sống thánh hiến là một ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo Hội trong Đức Giê-su, qua trung gian của Thánh Thần. Nhờ được tham dự vào 3 chức vụ của Đức Ki-tô (ngôn sứ, tư tế, vương giả), việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm (khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục) của các Ki-tô hữu trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu của đời sống chứng nhân cho Tin Mừng cứu độ. Từ đó, các tín hữu được mời gọi hướng nhìn về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã tác động trong lịch sử nhân loại, nhưng còn đang chờ đạt tới viên mãn ở trên trời.

 

Thực  vậy, “Qua các thời đại, luôn có những người nam nữ, sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha và sự thúc đẩy của Thánh Thần, đã chọn con đường đặc biệt để bước theo Đức Ki-tô, sequela Christi, để tự hiến cho Chúa với một trái tim “không chia sẻ” (x. 1 Cr 7, 34). Như các thánh Tông Đồ, họ cũng đã từ bỏ mọi sự để ở với Người và giống như Người, ra tay phục vụ Thiên Chúa và anh chị em mình. Như thế họ đã góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo Hội bằng muôn vàn đoàn sủng thuộc đời sống thiêng liêng và tông đồ mà Chúa Thánh Thần đã ban cho họ, và nhờ đó, họ cũng đã góp phần vào việc canh tân xã hội.” (Tông huấn “Đời Sống Thánh Hiến – Vita Consecrate”, số 1).

 

Trong Tông thư về “Năm Đời Sống Thánh Hiến 2015” (Ch. III., số 3), với tiêu đề: Các tu sĩ và những người tận hiến được mời gọi trở nên những “chuyên viên hiệp thông”, ĐTC Phan-xi-cô viết: “Vì thế tôi mong rằng “linh đạo hiệp thông” mà thánh Gio-an Phao-lô II đã chỉ ra, sẽ trở thành thực tại, và anh chị em sẽ là những người đầu tiên đón nhận “sự thách đố lớn lao ở trước mặt” trong ngàn năm mới: “làm cho Giáo hội là ngôi nhà và trường học của hiệp thông”. ĐTC đã phân biệt các “tu sĩ” và những “người tận hiến”, để cho thấy những người được thánh hiến có thể đứng ở một trong nhiều phạm trù (cá vị hay cộng đồng).

 

Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Ðời Sống Dòng Tu “Perfectae Caritatis” (số 7-11) đã phân định rõ hơn:

 

7. Những hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm. Trong những hội dòng hoàn toàn chuyên lo chiêm niệm, các tu sĩ chỉ nhất tâm phụng sự một mình Thiên Chúa trong cô tịch và lặng lẽ, trong việc chuyên lo cầu nguyện và hân hoan hãm mình, thì cho dù nhu cầu hoạt động tông đồ có khẩn thiết đi nữa, những hội dòng ấy vẫn luôn giữ một địa vị cao quí trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, trong đó, “mỗi chi thể đều có một tác động khác nhau” (Rm 12, 4).

 

8. Những hội dòng dấn thân làm việc tông đồ. Trong Giáo Hội, có rất nhiều hội dòng dành cho giáo sĩ hoặc giáo dân dấn thân làm việc tông đồ khác nhau tùy theo các ơn Chúa ban: người được ơn phục vụ để phục vụ hoặc ơn giáo lý để giảng thuyết, kẻ được ơn khuyến cáo để dẫn dụ, người ban phát cách đơn, người thương xót trong vui vẻ (x. Rm 12,5-8). “Các ân sủng dẫu khác nhau, tuy nhiên cũng cùng một Thánh Thần” (1Cor 12,4).

 

9. Trung thành với đời sống đan viện và cộng đồng. Phải trung thành duy trì và càng ngày càng làm sáng tỏ định chế đan viện khả kính trong tinh thần đích thực của nó, ở Ðông phương cũng như Tây phương. Ðịnh chế ấy, qua bao thế kỷ, đã tạo được nhiều công nghiệp hiển hách trong Giáo Hội và cộng đồng nhân loại. Nhiệm vụ chính yếu của các đan sĩ là phục vụ Thiên Chúa trong đời sống ẩn dật, hoặc phụ trách cách hợp pháp một vài công việc tông đồ hay bác ái Kitô giáo. Vậy, tuy vẫn duy trì tính chất riêng của mỗi dòng, họ cũng cần canh tân những tập truyền tốt lành xưa và thích nghi chúng với những nhu cầu hiện đại của các linh hồn để đan viện trở thành như trung tâm vun trồng dân Ki-tô giáo.

 

10. Ðời sống tu trì giáo dân. Ðời sống tu trì giáo dân, bất luận nam cũng như nữ, tự nó làm thành một bậc sống đầy đủ để khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm. Vì thế, Thánh Công Ðồng quí trọng bậc sống rất hữu ích này, hữu ích cho sứ mệnh mục vụ của Giáo Hội trong lãnh vực giáo dục thanh thiếu niên, săn sóc bệnh nhân và chu toàn những nhiệm vụ khác. Thánh Công Ðồng củng cố các tu sĩ ấy trong ơn gọi của họ và khuyến khích họ thích nghi cuộc sống với những đòi hỏi hiện đại.

 

11. Tu hội triều. Những tu hội triều, tuy không phải là dòng tu, nhưng cũng có lời khấn thật sự và trọn vẹn được Giáo Hội công nhận để giữ các lời khuyên Phúc Âm ở giữa đời. Lời khấn ấy tận hiến các hội viên nam cũng như nữ, giáo dân cũng như giáo sĩ hiện đang sống giữa đời. Bởi đó, chính họ phải trước hết quyết tâm tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa trong đức ái trọn hảo; còn tu hội, phải giữ tính chất đặc thù của mình, là sống giữa đời, để dù ở đâu, họ cũng có thể chu toàn hữu hiệu việc tông đồ ở giữa đời và như phát sinh từ lòng đời theo như tu hội đã chủ trương khi thành lập.

 

Như vậy là đã rõ: “Ngay từ thời sơ khai của Giáo Hội, đã có những người nam cũng như nữ, qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, quyết tự nguyện theo Chúa Kitô với một tinh thần tự do thanh thoát hơn, bắt chước Người cách trung thành hơn, và mỗi người một cách, tất cả đều sống tận hiến cho Thiên Chúa; trong số đó có nhiều người được Chúa Thánh Thần thúc đẩy nên đã theo đuổi đời sống cô liêu tịch mạc, hoặc lập ra những dòng tu đã được Giáo Hội hài lòng dùng quyền của mình để đón nhận và phê chuẩn.” (Sắc Lệnh “Pecfectae Caritatis”, số 1).

 

III- CHỨNG TỪ CỦA ĐỜI THÁNH HIẾN:

 

Toàn thể Ki-tô hữu trong Giáo hội đều được kêu mời nên thánh giữa đời, thông qua bí tích Rửa Tội, được nâng cao trong bí tích Thêm Sức để đạt tới tiêu điểm là bí tích Thánh Thể. Riêng với những tu hội triều, tu hội dòng, đan viện, đoàn hội Công Giáo tiến hành… thì còn tiến thêm một bước là tuyên khấn trọn đời. Khi gia nhập một hội dòng, một đoàn thể, các hội viên (đoàn viên) cũng phải đi từng bước: Từ “thỉnh sinh” (sơ tuyển), tới “tuyên hứa tạm” (khấn tạm), “tuyên hứa vĩnh viễn” (khấn trọn). Tiến trình ấy không những chỉ giúp bản thân người tín hữu, mà còn hiệp thông với cộng đoàn “mở mang Nước Chúa đến tận cùng trái đất”.

 

Ngày 13/5/2007, trong bài giảng tại Thánh điện Aparecida trong Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục khu vực Châu Mỹ La-tinh và khu vực bao gồm các hải đảo và quốc gia vùng Ca-ri-bê, Đức GH Bê-nê-đic-tô XVI đã khẳng định: ”Giáo Hội lớn lên nhờ những chứng tá, chứ không phải nhờ vào số người gia nhập đạo. Chứng tá thực sự có sức lôi cuốn là những thái độ sống vốn lại không phổ biến, đó là lòng quảng đại, không tư lợi, hy sinh, quên mình để chăm lo cho người khác cách phù hợp… Thật vậy, đời sống thánh hiến phải làm cho Giáo Hội tăng trưởng bằng sự hấp dẫn của mình.” (xc. “Năm Đời sống Thánh  hiến: Đánh thức thế giới” – Học viện Đa Minh)

 

Như những cành nho của Cây Nho Giê-su (Ga 15, 1-17), các Ki-tô hữu + các Tu hội triều + Tu hội dòng + Tu hội đời + các Đan viện và Hội đoàn Công Giáo tiến hành…; tất cả đêu có nhiệm vụ trổ sinh hoa trái, nếu không muốn “bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 11). Nói cách cụ thể là phải làm sao hiện thực hóa Lời dạy của Đức Ki-tô: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15). Và chỉ đến khi gặt hái được kết quả, thì đó mới là những chứng từ của đời thánh hiến, làm hành trang tiến về Quê Trời vĩnh cửu.

 

IV- MÙA CHAY VỚI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN: Tháng 3/2015 nằm trong cao điểm Mùa Chay. Thử xem Mùa Chay có liên quan gì tới “Chứng từ của đời thánh hiến”?

 

Trong sứ điệp Mùa Chay 2015 (số 1-2), ĐTC Phan-xi-cô dạy: “Mùa Chay là một mùa canh tân đối với Giáo hội, các cộng đoàn và mỗi tín hữu. Nhưng trên hết mùa Chay là một mùa ân thánh (2Cr 6, 2). Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta điều gì mà trước đó Ngài không ban cho chúng ta: ”Chúng ta yêu mến vì Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4, 19)… Mùa Chay là mùa thuận tiện để chúng ta để cho Chúa Ki-tô phục vụ và nhờ đó trở nên như Chúa. Điều này xảy ra khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa và khi chúng ta lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Trong đó chúng ta trở thành điều mà chúng ta lãnh nhận: trở nên Mình Chúa Ki-tô… Những điều nói về Giáo hội hoàn vũ thì cũng cần được biểu lộ trong đời sống của các giáo xứ và cộng đoàn.”

 

Mùa Chay là thời kỳ tất cả mọi Ki-tô hữu chuẩn bị trong cầu nguyện, trong chiêm niệm, trong sám hối, trong hành động (ăn chay, hãm mình, hy sinh, thực thi những công việc bác ái, cách riêng đối với các anh chị em nghèo khổ), để có thể được “cùng chết với Đức Ki-tô và cùng sống lai với Người” (Rm 6, 8) trong mầu nhiệm Phục Sinh. Rõ ràng “đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.” (2Cr 6, 2). Như vậy thì các vị thừa sai, các gia đình thừa sai (từ Giáo Hội toàn cầu tới địa phương) đều chung một nhiệm vụ cử hành Mùa Chay cách sốt sắng, ngõ hầu gặt hái được những chứng từ của đời thánh hiến cách tốt đẹp.

 

KẾT LUẬN: Tóm lại, “Chúng ta được mời gọi cảm nghiệm và chứng tỏ rằng Thiên Chúa có khả năng lấp đầy con tim của chúng ta và làm cho chúng ta được hạnh phúc, không cần phải đi tìm hạnh phúc ở đâu khác; chứng tỏ rằng tình huynh đệ chân chính sống trong các cộng đoàn của chúng ta nuôi dưỡng niềm vui; chứng tỏ rằng sự tận hiến để phục vụ Giáo hội, các gia đình, các người trẻ, các người già, các người nghèo giúp cho chúng ta đạt được sự thành tựu bản thân và mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc đời.” (Tông thư “Năm Đời Sống Thánh Hiến”, số II/1.)

 

Được thúc đẩy như thế bởi đức Tin, đức Cậy và nhất là đức Mến mà Chúa Thánh Thần đổ tràn trong lòng (Rm 5, 5), cộng đoàn thừa sai Giáo xứ đã sống bởi, sống với và sống cho Đức Giê-su Thiên Chúa và Thân Thể Người là Giáo Hội (Cl 1, 24) ngày càng nhiều hơn. Người Ki-tô hữu càng nồng nàn kết hiệp mật thiết với Chúa Ki-tô bao nhiêu (qua việc dâng hiến trọn cả cuộc sống của mình), thì đời sống Giáo Hội càng phong phú hơn và việc tông đồ của Giáo Hội càng dồi dào mãnh liệt hơn bấy nhiêu. Nếu nói “Đức Tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Thánh Âu-tinh), thì hơn lúc nào hết, những “chứng từ của đời thánh hiến” gặt hái được mới thực sự là sự đáp trả hồng ân Thiên Chúa, đồng thời cũng là sự “cho đi” (đức Mến) với cộng đoàn. Chỉ có như thế, gia đình Giáo xứ mới thực sư là cộng đoàn thừa sai loan báo Tin Mừng.

 

ĐTC Phan-xi-cô đã kết thúc Tông thư “Năm Đời Sống Thánh Hiến”: “Tôi ký thác Năm đời sống thánh hiến cho Đức Maria, Trinh nữ của lắng nghe và chiêm niệm, môn sinh tiên khởi của người Con yêu dấu của mình. Chúng ta hãy nhìn ngắm Người, là nữ tử quý mến của Chúa Cha và được trang điểm bởi mọi hồng ân, như mẫu gương tuyệt vời của việc đi theo Chúa Ki-tô trên đường yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.” Như vậy thì người Ki-tô hữu còn chần chờ gì nữa mà không chạy đến với Đức Maria để “Nhờ Mẹ, đến với Chúa Giê-su – Ad Jesum per Mariam”, ngõ hầu dâng lên Chúa tất cả những chứng từ của đời thánh hiến đã gặt hái được; đồng thời cầu xin Người ban Thần Khí soi sáng và tăng thêm sức mạnh để ngày càng hăng say thi hành sứ vụ thừa sai của bản thân cũng như của cộng đoàn Giáo xứ. Ước được như vậy. Amen.

 

JM. Lam Thy ĐVD.