Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ nhất của ĐTC Phanxicô về Năm Đức Tin trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, hôm thứ tư ngày mùng 3 tháng 4 năm 2013. Hôm nay Ngài tiếp tục loạt bài về Kinh Tin Kính mà ĐTC Bênêđictô XVI đã bắt đầu.
* * *
Kính chào anh chị em,
Hôm nay chúng ta trở lại bài Giáo Lý về Năm Đức Tin. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta lặp lại cụm từ này: “Đến ngày thứ ba, Người sống lại, như lời Thánh Kinh.” Đây chính là biến cố mà chúng ta đang cử hành: Việc Phục Sinh của Chúa Giêsu, là trung tâm của sứ điệp Kitô giáo được vang vọng ngay từ thủa ban đầu và được truyền đạt đến chúng ta. Thánh Phaolô viết cho các tín hữu thành Côrinthô: “Tôi đã truyền lại cho anh em… trước tiên điều mà tôi đã cũng nhận được là, Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta như Thánh Kinh, Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại theo như Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai.” (1 Cor 15:3-5). Lời tuyên xưng đức tin ngắn này vừa công bố Mầu Nhiệm Phục Sinh, với cuộc hiện ra đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh với Thánh Phêrô và Nhóm Mười Hai: cái chết và việc Phục Sinh của Chúa Giêsu là tâm điểm của niềm hy vọng của chúng ta. Nếu không có niềm tin vào cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu này, thì niềm hy vọng của chúng ta sẽ yếu ớt, và thậm chí sẽ không có hy vọng, và chính cái chết và việc Phục Sinh của Chúa Giêsu là tâm điểm của niềm hy vọng của chúng ta. Thánh Tông Đồ nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin của anh em sẽ ra vô ích và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi mình” (câu 17).
Tiếc thay, người ta thường cố gắng làm cho niềm tin vào việc Phục Sinh của Chúa Giêsu bị lu mờ, và những hồ nghi đã len lỏi vào ngay cả trong vòng các tín hữu. Một chút niềm tin đã bị “giảm thiểu”, như chúng ta nói; đó không phải là đức tin mạnh mẽ. Và sở dĩ có điều đó là do người ta suy đoán nông cạn, đôi khi vì thờ ơ, bận rộn với hàng ngàn những điều được coi là quan trọng hơn đức tin, hoặc bởi vì một cái nhìn hoàn toàn nhân bản (theo chiều ngang) về cuộc đời. Nhưng chính việc sống lại mở lòng chúng ta ra để đón nhận niềm hy vọng lớn nhất, bởi vì nó khai mở cuộc sống của chúng ta và cuộc sống của thế giới ra cho tương lai vĩnh cửu của Thiên Chúa, cho hạnh phúc sung mãn, cho sự chắc chắn rằng sự dữ, tội lỗi và sự chết có thể bị đánh bại. Và điều này dẫn đến việc sống thực tại thường nhật một cách tin tưởng hơn, đối diện chúng với lòng can đảm và quyết tâm. Việc Phục Sinh của Đức Kitô soi chiếu một ánh sáng mới trên những thực tại thường nhật này. Việc Phục sinh của Đức Kitô là sức mạnh của chúng ta!
Nhưng chân lý đức tin về việc Phục Sinh của Đức Kitô được truyền lại cho chúng ta thế nào? Có hai loại bằng chứng trong Tân Ước, một số dưới hình thức tuyên xưng đức tin, nghĩa là, những công thức tổng hợp biểu thị trọng tâm của đức tin; ngoài ra là những bằng chứng khác dưới hình thức tường thuật về việc Phục Sinh và về các biến cố liên quan đến nó. Trước hết: hình thức tuyên xưng đức tin chẳng hạn, là điều mà chúng ta vừa nghe, hoặc những điều trong Thư gửi tín hữu Rôma, ở đó Thánh Phaolô viết: “Thực ra, nếu anh em dùng miệng mà tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa, và tin trong lòng rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì anh em sẽ được cứu độ.” (10:9). Từ những bước đầu tiên của Hội Thánh, đức tin vào mầu nhiệm cái chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu là điều rất kiên định và rõ ràng. Tuy nhiên, hôm nay tôi muốn suy niệm về hình thức thứ hai, về bằng chứng dưới hình thức tường thuật mà chúng ta thấy trong các sách Tin Mừng. Trước hết, chúng ta ghi nhận rằng các nhân chứng đầu tiên cho biến cố này là các phụ nữ. Ngay từ tảng sáng, các bà đã đi đến mồ để ướp xác Chúa Giêsu, và tìm thấy dấu chỉ đầu tiên: ngôi mộ trống (Mc 16:1). Tiếp theo là cuộc gặp gỡ với một Sứ Giả của Thiên Chúa là vị đã tuyên bố: Đức Giêsu Thánh Nadarét, Đấng Chịu Đóng Đinh, Người không có ở đây, Người đã sống lại (xem cc. 5-6.). Các phụ nữ được thúc đẩy bởi tình yêu và biết chấp nhận lời loan báo này bằng đức tin: các bà tin, và lập tức thông truyền nó, các bà không giữ cho mình, mà thông truyền tin ấy.
Niềm vui của việc biết rằng Chúa Giêsu còn sống, niềm hy vọng tràn đầy tâm hồn chúng ta, là điều không thể giữ nổi. Điều này cũng cần được thực hiện trong đời sống của chúng ta. Chúng ta cảm nghiệm được niềm vui được làm Kitô hữu! Chúng ta tin vào Chúa Phục Sinh là Đấng đã chiến thắng sự dữ và sự chết! Chúng ta hãy can đảm “đi ra” để đem niềm vui và ánh sáng này đến tất cả mọi nơi trong cuộc sống chúng ta! Việc Phục Sinh của Đức Kitô là sự chắc chắn vĩ đại nhất của chúng ta, là kho tàng quý giá nhất của chúng ta! Làm sao mà chúng ta không chia sẻ với những người khác kho tàng này, sự chắc chắn này? Nó không chỉ dành riêng cho chúng ta, nó phải được thông truyền, phải được trao ban cho những người khác, phải được chia sẻ với những người khác. Đó chính là chứng từ của chúng ta.
Có một yếu tố khác. Trong những tuyên xưng đức tin của Tân Ước, chỉ những người nam, các Tông Đồ, được nhắc đến như những chứng nhân của việc Phục Sinh, chứ không phải các phụ nữ. Sở dĩ có điều này là bởi vì theo Luật Do Thái thời đó, phụ nữ và trẻ em không thể là những nhân chứng xác thực, đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong các Tin Mừng, các phụ nữ đóng một vai trò chính và cơ bản. Ở đây chúng ta có thể nắm được một yếu tố ủng hộ tính cách lịch sử của việc Phục Sinh: nếu nó là một biến cố bịa đặt, thì trong bối cảnh của thời đại ấy, nó đã không được kết nối với lời chứng của các phụ nữ. Thay vào đó, các Thánh Ký chỉ đơn thuần tường thuật những gì đã xảy ra: các phụ nữ là những nhân chứng đầu tiên. Điều này nói lên rằng Thiên Chúa không chọn lưa theo những tiêu chuẩn của loài người: những nhân chứng đầu tiên của việc Giáng Sinh của Chúa Giêsu là các mục đồng, những người đơn sơ và khiêm nhường; những nhân chứng đầu tiên của việc Phục Sinh là các phụ nữ. Và điều này tuyệt đẹp. Theo một mức độ nào đó thì đây là sứ vụ của các phụ nữ: của các bà mẹ, các phụ nữ! Làm chứng cho con cái và cháu chắt của họ rằng Chúa Giêsu đang sống, Người là Đấng Hằng Sống, là Đấng đã sống lại. Hỡi các bà mẹ và các phụ nữ, hãy tiến lên với chứng từ này!
Đối với Thiên Chúa, chính con tim mới đáng kể, chúng ta mở lòng ra cho cho sự hiện diện của Ngài như thế nào, nếu chúng ta như những trẻ em đầy tín thác. Nhưng điều này cũng làm cho chúng ta suy nghĩ về cách thế mà các phụ nữ trong Hội Thánh và trong hành trình đức tin, đã có và ngày nay có một vai trò đặc biệt trong việc mở cửa cho Chúa, bằng cách đi theo Người và thông truyền Dung Nhan của Người, bởi vì cái nhìn đức tin luôn luôn cần cái nhìn tình yêu đơn sơ và sâu sắc. Các Tông Đồ và các môn đệ thấy khó (mà) tin (vào việc Phục Sinh). Còn các phụ nữ thì không. Thánh Phêrô chạy đến ngôi mộ, nhưng ngừng lại ở ngôi mộ trống; Thánh Thôma phải chạm vào các vết thương trên thân thể của Chúa Giêsu với hai bàn tay của mình. Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng thế, thật là quan trọng khi biết và cảm thấy rằng Thiên Chúa yêu thương mình, đừng sợ yêu: đức tin được tuyên xưng bằng miệng và bằng con tim, bằng những lời nói và bằng tình yêu.
Sau những lần hiện ra với các phụ nữ, thì Chúa cũng hiện ra với những người khác: Chúa Giêsu hiện diện một cách mới mẻ: Người là Đấng Chịu Đóng Đinh, nhưng thân xác Người được vinh hiển; Người đã không trở về cuộc sống trần thế, nhưng đã trở lại trong một điều kiện mới. Lúc đầu họ không nhận Người, và chỉ qua những lời nói và cử chỉ của Người mà đôi mắt của họ được mở ra: cuộc gặp gỡ Chúa Phục Sinh biến đổi, ban một sức mạnh mới cho đức tin, một nền tảng không thể lay chuyển nổi. Đối với chúng ta cũng có nhiều dấu chỉ mà Đấng Phục Sinh làm cho chúng ta nhận ra Người: Thánh Kinh, Thánh Thể và các bí tích khác, đức bác ái, những cử chỉ ấy của tình yêu mang lại một tia sáng của Đấng Phục Sinh. Chúng ta hãy để cho mình được soi sáng bởi việc Phục Sinh của Đức Kitô, hãy để cho mình được biến đổi bởi quyền năng của Người, để rồi qua chúng ta, trong thế gian, những dấu chỉ của sự chết nhường chỗ cho những dấu chỉ của sự sống.
Tôi thấy có rất nhiều người trẻ ở quảng trường. Kìa họ ở đó! Với các con cha nói: các con hãy nói lên sự chắc chắn này: Chúa đang sống và Người đi bên cạnh chúng ta trong cuộc sống. Đây là sứ vụ của các con! Hãy đi bày tỏ niềm hy vọng này. Hãy cột chặt vào neo hy vọng này: cái neo này là cái neo ở trên trời; hãy giữ chặt dây, hãy cột chặt vào neo và nói lên niềm hy vọng. Các con, những nhân chứng của Chúa Giêsu, hãy đi nói lên lời chứng rằng Chúa Giêsu đang sống và điều này sẽ cho chúng ta niềm hy vọng, sẽ đem lại hy vọng cho thế giới này là thế giới đã một phần nào đó trở nên già nua vì chiến tranh, sự dữ và tội lỗi. Hỡi người trẻ, hãy tiến lên!
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ hai của ĐTC Phanxicô về Năm Đức Tin trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, hôm thứ tư ngày mùng 10 tháng 4 năm 2013. Hôm nay Ngài tiếp tục loạt bài về Kinh Tin Kính mà ĐTC Bênêđictô XVI đã bắt đầu.
* * *
Anh chị em thân mến, kính chào anh chị em!
Trong bài giáo lý trước chúng ta đặt trọng tâm vào biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu, trong đó các phụ nữ đã đóng một vai trò đặc biệt. Hôm nay tôi muốn suy niệm về ý nghĩa cứu độ của biến cố này. Phục Sinh có ý nghĩa gì đối với cuộc đời của chúng ta? Và tại sao đức tin của chúng ta sẽ ra vô ích nếu không có nó?
Đức tin của chúng ta dựa vào cái chết và việc Phục Sinh của Đức Kitô, như một ngôi nhà được xây trên những nền móng: nếu những nền móng này bị lún thì toàn thể ngôi nhà sẽ sụp đổ. Trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã hiến mình, tự nguyện gánh lấy tội lỗi của chúng ta cùng đã xuống vực thẳm của sự chết, và trong việc Phục Sinh, Người chiến thắng, xóa tội chúng ta và mở ra cho chúng ta con đường để được tái sinh vào một cuộc sống mới. Thánh Phêrô diễn tả điều này một cách ngắn gọn ở đầu Thư Thứ Nhất của ngài, như chúng ta đã nghe:“Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Chúa Giêsu Kitô của chúng ta. Theo lượng từ bi chan chứa của Ngài, Chúng ta được tái sinh trong một niềm hy vọng sống động, nhờ sự Sống Lại của Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết để hưởng gia tài không thể hư mất, không thể bị ô nhiễm và không thể bị phai tàn” (1:3-4).
Thánh Tông Đồ nói với chúng ta rằng sự Sống Lại của Chúa Giêsu là một điều gì mới lạ: chúng ta được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và trở nên con cái Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta được sinh ra trong một đời sống mới. Điều này được thể hiện cho chúng ta khi nào? Trong Bí Tích Rửa Tội. Ở thời cổ đại, người ta thường lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội bằng cách dìm vào nước. Người được rửa tội bước xuống một cái bồn lớn ở nơi rửa tội, cởi y phục ra, và giám mục hay linh mục đổ nước ba lần trên đầu, trong khi rửa tội cho người ấy nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Sau đó, người được rửa tội ra khỏi bồn và mặc áo mới màu trắng: điều này có nghĩa là người ấy đã được sinh ra trong một đời sống mới, qua việc tự dìm mình trong cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô. Người ấy đã trở nên con Thiên Chúa. Trong Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô viết: “Anh em đã nhận Thần Khí làm nghĩa tử, bởi đó cho chúng ta kêu lên, ‘Abba! Lạy Cha!’” (Rm 8:15). Chính Chúa Thánh Thần mà chúng ta nhận được trong Phép Rửa dạy chúng ta và thúc đẩy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa: “Lạy Cha”, hay đúng hơn, “Abba”, có nghĩa là “Cha”. Vì vậy, Thiên Chúa của chúng ta cũng là một người Cha đối với chúng ta. Chúa Thánh Thần tạo ra trong chúng ta tình trạng làm con cái Thiên Chúa mới này, và đây là món quà lớn nhất mà chúng ta nhận được từ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu. Và Thiên Chúa đối xử với chúng ta như những người con, Ngài hiểu chúng ta, tha thứ cho chúng ta, ôm ấp chúng ta và yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta lầm lỗi. Trong Cựu Ước, ngôn sứ Isaia nói rằng mặc dù một người mẹ có thể quên con mình, Thiên Chúa chẳng bao giờ quên chúng ta, chẳng bao giờ (xem 49:15). Và điều này tuyệt đẹp!
Tuy nhiên, mối quan hệ hiếu thảo này với Thiên Chúa không giống như một kho báu được cất giữ trong một xó của cuộc đời chúng ta, nhưng phải được phát triển, phải được cho ăn mỗi ngày bằng cách lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, tham dự các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Hòa Giải và Thánh Thể, và qua đức ái. Chúng ta có thể sống như những người con! Và đó là phẩm giá của chúng ta – chúng ta có phẩm giá của những người con. Hành xử như con cái thật! Điều này có nghĩa là mỗi ngày chúng ta phải để cho Đức Kitô biến đổi mình thành hình ảnh của Người; điều ấy có nghĩa là cố gắng sống như những Kitô hữu, cố gắng theo Người, ngay cả khi chúng ta thấy những giới hạn và những yếu điểm của mình. Cám dỗ gạt Thiên Chúa ra một bên để đặt mình ở tâm điểm luôn luôn rình rập chúng ta, và kinh nghiệm về tội lỗi làm tổn thương đời sống Kitô hữu của chúng ta, việc làm con cái Thiên Chúa của chúng ta. Vì thế chúng ta phải có lòng can đảm của đức tin và không được để cho mình bị dẫn dắt bởi một não trạng luôn nói với chúng ta: “Thiên Chúa không cần thiết, Ngài không quan trọng đối với bạn”, vv… Chính điều ngược lại mới đúng: chỉ qua việc hành xử như con cái Thiên Chúa, không nản lòng vì những sa ngã của mình, vì tội lỗi của mình, và cảm thấy được Ngài yêu thương, mà cuộc đời của chúng ta sẽ được đổi mới, được sinh động hóa bởi sự thanh thản và niềm vui. Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta! Thiên Chúa là niềm hy vọng của chúng ta!
Anh chị em thân mến, chúng ta phải là những người đầu tiên giữ niềm hy vọng chắc chắn này và cần phải là một dấu chỉ hữu hình, rõ ràng và sáng sủa của niềm hy vọng ấy cho tất cả mọi người. Chúa Phục Sinh là niềm hy vọng không bao giờ tàn, không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng (x. Rm 5:5). Niềm hy vọng không bao giờ lừa dối. Đó là niềm hy vọng đến từ Chúa! Biết bao nhiêu lần trong đời sống chúng ta những niềm hy vọng bị tan biến, biết bao nhiêu lần những kỳ vọng mà chúng ta mang trong lòng không thành tựu! Niềm hy vọng của chúng ta như những Kitô hữu là niềm hy vọng mãnh liệt, chắc chắn và kiên vững trên đất này, nơi mà Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta bước đi, và mở ra cho cõi vĩnh hằng, bởi vì nó được thiết lập dựa vào Thiên Chúa, là Đấng luôn trung tín. Chúng ta không được quên rằng: Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín; Thiên Chúa luôn trung tín với chúng ta. Được sống lại với Đức Kitô qua Phép Rửa, nhờ hồng ân đức tin, để thừa hưởng một di sản bất diệt, dẫn chúng ta đến việc tìm kiếm mọi sự thuộc về Thiên Chúa, nghĩ nhiều hơn về Ngài, cầu nguyện nhiều hơn với Ngài. Là một Kitô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng có nghĩa là sống trong Đức Kitô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi.
Anh chị em thân mến, với những ai hỏi lý do về niềm hy vọng nơi chúng ta (x. 1 Ph 3:15), chúng ta hãy chỉ cho người khác về Đức Kitô Phục Sinh. Chúng ta hãy chỉ cho người khác về Người qua việc công bố Lời Chúa, nhưng đặc biệt là qua cuộc sống phục sinh của mình. Chúng ta hãy bày tỏ niềm vui được làm con cái Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự tự do để sống trong Đức Kitô, Đấng là sự tự do đích thực cứu chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, sự dữ và sự chết! Chúng ta hãy nhìn đến quê hương trên trời của mình, chúng ta cũng sẽ có một ánh sáng và sức mạnh mới trong công việc và trong những nỗ lực hàng ngày của chúng ta. Đó là một việc phục vụ có giá trị mà chúng ta phải trả lại cho thế giới của chúng ta, là một thế giới thường không còn khả năng nhìn lên cao, không còn có thể hướng mắt về phía Thiên Chúa. Cám ơn anh chị em.
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 17 tháng 4 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng trường Thánh Phêrô. Người tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính và Năm Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến,chào anh chị em.
Trong kinh Tin Kính chúng ta thấy có khẳng định rằng Chúa Giêsu “lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha.” Cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu đạt đến tột đỉnh với biến cố Lên Trời, nghĩa là, khi Người qua thế gian này mà về với Chúa Cha và được đưa lên ngự bên hữu Ngài. Ý nghĩa của biến cố này là gì? Hậu quả của biến cố này đối với cuộc sống của chúng ta là gì? Chiêm ngưỡng Chúa Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha nghĩa là gì? Chúng ta sẽ để cho Thánh Sử Luca hướng dẫn mình về điều này.
Chúng ta sẽ bắt đầu từ lúc Chúa Giêsu quyết định thực hiện cuộc hành trình cuối cùng của Người lên Giêrusalem. Thánh Luca ghi nhận: “Khi gần đến ngày Người được đưa lên trời, Người nhất định đi lên Giêrusalem.” (Lc 9:51). Trong khi Người “đi lên” Thành Thánh, nơi mà cuộc “xuất hành” của Người khỏi cuộc sống này sẽ được hoàn thành, Chúa Giêsu đã thấy cùng đích là Thiên Đàng, nhưng Người biết rõ rằng con đường sẽ đưa Người vào vinh quang của Chúa Cha phải đi qua Thánh Giá, qua sự vâng phục kế hoạch yêu thương nhân loại của Thiên Chúa. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nói rằng “việc nâng lên Chúa Giêsu lên trên thập giá ám chỉ và loan báo việc đưa Người lên qua sự lên Trời của Người” (số 662). Trong đời sống Kitô hữu của mình, chúng ta cũng phải hiểu rất rõ rằng để đi vào vinh quang Thiên Chúa đòi hỏi phải trung thành với Thánh Ý của Ngài hàng ngày, ngay cả khi điều ấy đòi hỏi hy sinh, khi điều ấy đôi khi đòi buộc chúng ta phải thay đổi kế hoạch của mình. Việc Lên Trời của Chúa Giêsu đã diễn ra cách cụ thể trên Núi Cây Dầu, gần nơi mà Người lui về cầu nguyện trước Cuộc Khổ Nạn ở lại trong sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha: một lần nữa chúng ta thấy rằng cầu nguyện cho chúng ta ân sủng để sống trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa.
Ở cuối Tin Mừng của ngài, Thánh Luca kể lại biến cố Thăng Thiên một cách rất tổng hợp. Chúa Giêsu dẫn các môn đệ “đi đến tận vùng gần Bêtania, và giơ tay chúc lành cho các ông. Trong khi Người đang chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. Các ông thờ lạy Người rồi trở lại Giêrusalem, lòng tràn ngập niềm vui, và luôn ở trong Ðền Thờ mà ngợi khen Thiên Chúa.”(Lc 24:50-53): Đó là điều mà Thánh Luca nói. Tôi muốn ghi nhận hai yếu tố của tường thuật này. Trước hết, trong khi Lên Trời, Chúa Giêsu làm cử chỉ chúc lành của tư tế và các môn đệ chắc chắn bày tỏ đức tin của mình với việc thờ lạy, quỳ gối và cúi đầu của các ông. Đây là một điểm quan trọng thứ nhất: Chúa Giêsu là vị tư tế duy nhất một và vĩnh cửu, là Đấng với Cuộc Khổ Nạn của Người, đã đi qua cái chết, ngôi mộ và Sống Lại cùng Lên Trời. Người ở cạnh Thiên Chúa Cha, nơi Người mãi mãi cầu bầu cho chúng ta (x. Dt 9:24). Như Thánh Gioan nói trong Thư Thứ Nhất của ngài, Người là Ðấng Bào Chữa cho chúng ta: đẹp biết bao khi nghe điều này. Khi một người bị gọi ra trước quan tòa hay bị gọi ra xét xử, điều đầu tiên người ấy làm là tìm một trạng sư để bảo vệ mình. Chúng ta có một Đấng luôn luôn bảo vệ chúng ta. Người bảo vệ chúng ta khỏi mưu chước xảo quyệt của ma quỉ, Người bảo vệ chúng ta khỏi chính mình, khỏi tội lỗi của mình! Anh chị em thân mến, chúng ta có Đấng Bào Chữa này: chúng ta đừng sợ hãi đến cùng Người để xin ơn tha thứ, để xin phúc lành của Người, để cầu xin Người thương xót. Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta, Người là Đấng Bào Chữa cho chúng ta: Người luôn luôn bảo vệ chúng ta. Đừng quên điều này!
Do đó việc Chúa Giêsu Lên Trời làm cho chúng ta biết thực tại rất an ủi này dành cho cuộc hành trình của mình: trong Đức Kitô, là Thiên Chúa thật và người thật, bản tính nhân loại của chúng ta đã được đưa lên cùng Thiên Chúa; Người đã mở đường cho chúng ta; Người như người đứng đầu của một dây kéo khi leo lên một ngọn núi, Đấng đến đỉnh núi và kéo chúng ta lên với chính Người, dẫn dắt chúng ta đến với Thiên Chúa. Nếu chúng ta phó thác cuộc đời của chúng ta cho Người, nếu chúng ta để cho mình được Người hướng dẫn, chúng ta nhất định ở trong vòng tay an toàn, trong vòng tay của Đấng Cứu Độ chúng ta, trong tay Đấng Bào Chữa cho chúng ta.
Một yếu tố thứ hai: Thánh Luca nói rằng các Tông Đồ, sau khi thấy Chúa lên trời, trở về Giêrusalem “lòng tràn ngập niềm vui.” Điều này có vẻ hơi xa lạ đối với chúng ta. Nói chung, khi phải xa cách người thân và bạn bè của mình, vì một cuộc ra đi dứt khoát, và trên hết là vì cái chết, thì trong lòng chúng ta tự nhiên cảm thấy buồn bởi vì chúng ta sẽ không còn nhìn thấy khuôn mặt của họ, chúng ta sẽ không còn nghe thấy tiếng nói của họ, chúng ta sẽ không còn có thể tận hưởng tình cảm của họ và sự hiện diện của họ. Thay vào đó, Thánh Sử nhấn mạnh đến niềm vui sâu xa của các Tông Đồ. Nhưng làm sao điều đó có thể xảy ra? Chính bởi vì, với cái nhìn đức tin, các ông hiểu rằng, mặc dù không còn trong tầm mắt của các ông, Chúa Giêsu luôn luôn ở lại với các ông, Người không bỏ rơi các ông, và trong vinh quang của Chúa Cha, Người nâng đỡ các ông, hướng dẫn các ông và cầu bầu cho các ông.
Thánh Luca cũng kể lại biến cố Thăng Thiên ở đầu sách Tông Đồ Công Vụ, để nhấn mạnh rằng biến cố này như cái vòng cột chặt và liên kết cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu với cuộc sống của Hội Thánh. Ở đây Thánh Luca cũng đề cập đến đám mây che khuất Chúa Giêsu khỏi nhãn quan của các môn đệ, lúc các ông vẫn còn nhìn chăm chú vào Đức Kitô khi Người lên cùng Chúa Cha (x. Cv 1:9-10). Sau đó có hai người đàn ông mặc áo choàng trắng đứng cạnh các ông, đã yêu cầu các ông đừng đứng đó nhìn trời, nhưng hãy nuôi dưỡng cuộc sống các ông và việc làm nhân chứng của các ông cho điều chắc chắn rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại cùng một cách như các ông đã thấy Người lên trời (x. Cv 1:10-11). Thực ra, đó là lời mời để bắt đầu từ việc chiêm niệm về quyền làm Chúa của Đức Kitô, ngõ hầu nhận được từ Người sức mạnh để mang Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng trong cuộc sống hàng ngày: Thánh Bênêdictô dạy rằng chiêm niệm và hành động, cầu nguyện và làm việc, cả hai đều cần thiết trong cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.
Anh chị em thân mến, việc Chúa Lên Trời không biểu thị sự vắng mặt của Chúa Giêsu, nhưng nói cho chúng ta biết rằng Người vẫn còn sống và ở giữa chúng ta bằng một cách thế mới; Người không còn ở một nơi cụ thể trên thế gian như trước khi Lên Trời; giờ đây Người ở trong quyền lực của Thiên Chúa, trong sự hiện diện ở mọi không gian và thời gian, gần gũi mỗi người chúng ta. Chúng ta không bao giờ bị cô đơn trong cuộc sống của mình: Chúa Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh hướng dẫn chúng ta; có rất nhiều anh chị em cùng với chúng ta sống đức tin của họ hàng ngày trong thinh lặng và âm thầm, trong cuộc sống gia đình và làm việc của họ, trong những vấn đề và những khó khăn của họ, trong niềm vui và hy vọng của họ, và mang đến cho thế gian quyền lực của tình yêu Thiên Chúa, trong Đức Chúa Giêsu Kitô đã Sống Lại và Lên Trời, Đấng Bầu Cử cho chúng ta. Cảm ơn anh chị em.
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 24 tháng 4 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng trường Thánh Phêrô. Người tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về kinh Tin Kính và Năm Đức Tin.
* * *
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng rằng Chúa Giêsu “sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.” Lịch sử nhân loại bắt đầu với việc tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và giống Thiên Chúa, và kết thúc với cuộc phán xét cuối cùng của Đức Kitô. Chúng ta thường quên hai thái cực này của lịch sử và hơn hết, đôi khi đức tin vào việc trở lại của Đức Kitô và cuộc phán xét cuối cùng không được rõ ràng và vững chắc trong con tim của các Kitô hữu. Trong đời sống công khai của Người, Chúa Giêsu thường chú tâm vào thực trạng của việc trở lại lần sau hết của Người. Hôm nay tôi muốn suy niệm về ba đoạn văn trong Tin Mừng có thể giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm này: đó là đoạn về mười trinh nữ, nén bạc và cuộc phán xét cuối cùng. Tất cả ba đoạn này đều là một phần của bài giảng về ngày tận thế của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Matthêu.
Trước hết, chúng ta hãy nhớ rằng với biến cố Thăng Thiên, Con Thiên Chúa mang nhân tính của chúng ta mà Người đã mặc lấy lên cùng Cha Người, và Người muốn kéo mọi người đến với Mình, mời gọi toàn thể thế giới đến để được chào đón nơi vòng tay rộng mở của Thiên Chúa, ngõ hầu, ở cuối lịch sử, toàn bộ thực tại sẽ được dâng lại cho Chúa Cha.
Nhưng có “thời gian chuyển tiếp” này ở giữa cuộc cuộc xuống thế lần thứ nhất và cuộc trở lại lần sau hết của Đức Kitô, đó chính là thời gian mà chúng ta đang sống. Dụ ngôn mười trinh nữ (x. Mt 25, 1-13) nằm trong chính bối cảnh “chuyển tiếp” này. Mười thiếu nữ đang chờ đợi sự xuất hiện của chàng rể, nhưng chàng đến chậm và các cô ngủ thiếp đi. Khi được bất ngờ thông báo rằng chàng rể đến, tất cả các cô đều sẵn sàng để đón chàng, nhưng trong lúc năm cô trong họ, các trinh nữ khôn ngoan, có dầu để đốt đèn của mình thì những cô khác, các trinh nữ khờ dại, bị bỏ lại vì đèn không đốt được, bởi các cô không có dầu; và trong khi các cô đi kiếm dầu thì chàng rể đến, và các trinh nữ khờ dại nhận ra rằng cửa dẫn vào tiệc cưới đã bị đóng. Các cô kiên trì gõ cửa, nhưng đã quá muộn, chàng rể trả lời: Tôi không biết các cô. Chàng rể là Chúa, và thời gian chờ đợi Người đến là thời gian Người ban cho chúng ta, cho tất cả chúng ta với lòng thương xót và kiên nhẫn của Người trước ngày trở lại sau hết của Người, đây là thời gian canh thức; thời gian trong đó chúng ta phải tiếp tục đèn đức tin, cậy, mến được thắp sáng, thời gian mà chúng ta cần phải giữ cho tâm hồn rộng mở với chân thiện mỹ; một thời gian để sống theo Thánh Ý Thiên Chúa, vì chúng ta làm không biết ngày, cũng như không biết giờ trở lại của Đức Kitô. Điều được đòi hỏi nơi chúng ta là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này – chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ, một cuộc gặp gỡ tuyệt đẹp, cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu – điều ấy có nghĩa là có khả năng nhìn thấy những dấu chỉ của sự hiện diện của Người, giữ cho đức tin của mình được sống bằng cách cầu nguyện, các bí tích, phải cảnh giác để đừng ngủ quên, đừng quên Thiên Chúa. Đời sống ngái ngủ của Kitô hữu là một cuộc sống buồn tẻ, không phải là một cuộc sống hạnh phúc. Kitô hữu phải hạnh phúc, phải có niềm vui của Chúa Giêsu. Đừng thiếp ngủ!
Dụ ngôn thứ nhì là dụ ngôn những nén bạc, làm cho chúng ta suy nghĩ về mối liên hệ giữa cách chúng ta sử dụng những hồng ân nhận được từ Thiên Chúa và ngày trở lại của Người, khi Người hỏi chúng ta hỏi sử dụng chúng thế nào (x. Mt 25: 14-30). Chúng ta biết rõ ngụ ngôn này: trước khi khởi hành, chủ trao cho mỗi đầy tớ một ít nén bạc, để sử dụng tốt trong lúc ông vắng mặt. Ông cho người thứ nhất năm nén, người thứ nhì hai nén và người thứ ba một nén. Trong thời gian ông vắng mặt, hai người đầy tớ trước làm cho những nén bạc của họ – những đồng tiền cổ – sinh lời, trong khi người thứ ba muốn chôn nén bạc của mình và trả lại nguyên vẹn cho chủ. Khi trở về, ông chủ xét đoán việc làm của họ: ông khen hai người trước, trong khi người thứ ba thì bị ném vào nơi tối tăm, bởi anh giấu nén bạc của mình, khép kín chính mình, vì sợ hãi. Một Kitô hữu khép kín chính mình, giấu đi tất cả những gì Chúa đã ban cho người ấy như một Kitô hữu thì người ấy… không phải là một Kitô hữu! Người ấy là một Kitô hữu không biết tạ ơn Thiên Chúa vì tất cả những gì Ngài đã ban cho mình! Dụ ngôn này cho chúng ta biết thời gian mong đợi Chúa trở lại là thời gian để hành động – chúng ta đang trong thời gian hoạt động – thời gian để làm cho các hồng ân của Thiên Chúa được sinh hoa kết quả không phải cho mình nhưng cho Chúa cho Hội Thánh, cho những người khác, thời gian không ngừng tìm cách gia tăng sự tốt lành trên thế gian. Và đặc biệt là bây giờ, trong thời điểm khủng hoảng này, điều quan trọng là không khép kín nơi mình, chôn vùi tài năng của mình, những tài sản tinh thần, trí tuệ, vật chất, tất cả mọi sự mà Chúa đã ban cho chúng ta, nhưng mở lòng ra, đoàn kết với và chú tâm đến tha nhân. Ở quảng trường hôm nay, tôi thấy có rất nhiều người trẻ, có đúng không? Có phải có rất nhiều người trẻ không? Họ ở đâu? Với các con, những người đang bắt đầu cuộc hành trình của cuộc đời các con, cha hỏi các con: Các con có nghĩ về những tài năng mà Thiên Chúa đã ban cho các con không? Các con có nghĩ về cách các con dùng chúng để phục vụ người khác không? Đừng chôn vùi tài năng của các con! Hãy đầu tư chúng vào những lý tưởng cao cả, những lý tưởng mở rộng tâm hồn, những lý tưởng phục vụ, là những lý tưởng sẽ làm cho tài năng của các con sinh nhiều hoa trái. Cuộc sống không được ban cho chúng ta để chúng ta có thể khư khư giữ nó cho mình, nhưng được ban cho chúng ta để chúng ta cho lại. Các người trẻ thân mến, các con hãy có một tâm hồn quảng đại! Đừng sợ ước mơ những điều cả thể!
Sau cùng, một lời về đoạn phán xét chung, trong đó mô tả việc trở lại của Chúa, khi Người sẽ phán xét tất cả mọi người, kẻ sống và kẻ chết (x. Mt 25, 31-46). Hình ảnh được Thánh Ký sử dụng là hình ảnh của người mục tử tách biệt chiên ra khỏi dê. Bên phải là những người đã hành động theo Thánh Ý của Thiên Chúa, qua việc giúp đỡ những người lân cận đói khát, xa lạ, trần truồng, đau ốm, tù đày, tôi đã nói “người xa lạ”: Tôi nghĩ đến tất cả những người nước ngoài đang ở đây trong Giáo Phận Rôma; chúng ta đang làm gì cho họ? Còn bên trái là những kẻ đã không giúp đỡ những người lân cận. Dụ ngôn này nói với chúng ta rằng chúng ta sẽ được Thiên Chúa phán xét dựa trên đức ái, dựa trên việc chúng ta yêu Chúa trong anh em mình như thế nào, đặc biệt là những người yếu đuối và nghèo khổ nhất. Tất nhiên, chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ rằng chúng ta được công chính hóa, chúng ta được cứu độ nhờ ân sủng, một hành động của tình yêu nhưng không của Thiên Chúa là điều luôn luôn đi trước chúng ta; một mình chúng ta không thể làm được gì. Đức tin trước hết là một hồng ân chúng ta đã nhận được. Nhưng để sinh hoa kết quả, ân sủng của Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi sự mở lòng, sự đáp trả tự do và cụ thể của chúng ta. Đức Kitô đến để mang lại cho chúng ta lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng cứu độ. Điều đòi hỏi nơi chúng ta là phải tín thác vào Người, để làm cho hồng ân của tình yêu của Người phù hợp với một cuộc sống tốt lành, với hành động được sinh động hóa bởi đức tin và tình yêu.
Anh chị em thân mến, chớ gì chúng ta không bao giờ sợ nhìn vào cuộc phán xét cuối cùng; thay vào đó nó phải thúc đẩy chúng ta sống trong hiện tại một cách tốt hơn. Trong lòng thương xót và kiên nhẫn của Ngài, Thiên Chúa ban cho chúng ta thời gian này để chúng ta có thể học mỗi ngày ngõ hầu nhận ra Ngài trong những người nghèo khổ và bé nhỏ, chớ gì chúng ta cố gắng làm điều tốt và chúng ta tỉnh thức trong cầu nguyện và trong tình yêu. Chớ gì Chúa, ở cuối cuộc đời và lịch sử của chúng ta, có thể nhận ra chúng ta là những đầy tớ tốt và trung thành. Cảm ơn anh chị em!
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ