Tuần IV: Yêu đến trao ban chính mình

TUẦN 4

2 Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga 3,14-21
 

Anh chị em thân mến,

Huyền thoại Ấn Độ có câu chuyện này: Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói:

– Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già được không?

Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá. Thỏ Pôlixa bảo ông:

– Được rồi, ông chờ một lát.

Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:

– Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.

Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng Đế cho phép tới thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng Đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.

Câu chuyện chúng ta vừa nghe chỉ là một huyền thoại, nhưng dạy chúng ta bài học tuyệt vời về tình bác ái đỉnh cao. Đó là việc không giữ lại bất cứ điều gì cho mình, trao tặng tất cả cho người khác, trao tặng cả mạng sống của mình. Câu chuyện giúp chúng ta liên tưởng tới tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Dân Israel phạm tội, bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Vậy mà Thiên Chúa vẫn yêu thương, sai sứ giả đến cảnh cáo, nhắc nhở và kêu gọi họ trở về. Tuy nhiên, họ đã không nghe, lại còn nhạo cười các sứ giả, khinh thường lời Ngài, chế diễu các ngôn sứ, đã làm cho Thiên Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.

Hậu quả của lỗi lầm và sự bất trung bất nghĩa của họ là nhà Thiên Chúa bị kẻ thù thiêu đốt, tường thành Giêrusalem bị triệt hạ, các lâu đài trong thành bị phóng hỏa và các đồ đạc quí giá bị phá hủy. Người thì bị giết, kẻ thì bị bắt đi lưu đày ở Babilon, làm nô lệ cho nhà vua và con cháu của vua Canđê. Thiên Chúa đánh phạt họ không phải vì tức giận, nhưng vì muốn dùng hình phạt như là một phương cách giáo dục để họ trở nên tốt hơn. Sau đó, Ngài lại dành tình thương cho họ và tìm cách đưa họ trở về quê hương. Ngài đã tác động trên tâm trí vua Kirô của đế quốc Batư để ông trở thành người giải phóng Israel, đưa họ trở về đất nước của họ, hỗ trợ họ tái thiết đền thờ Giêrusalem.

Tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại có từ đời đời và kéo dài mãi đến tận cùng thời gian. Tình thương ấy được đầy đến đỉnh điểm qua việc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho thế gian “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Tình thương của Thiên Chúa được thể hiện dưới thời Tân Ước lớn lao hơn nhiều so với thời Cựu ước. Người không những giải phóng con người khỏi phần nào những khổ đau kiếp người tại thế, nhưng còn dùng Con Một của Người để giải phóng con người khỏi phải chết đời đời.

Hỏi rằng có tình thương nào lớn hơn tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại? Có cha mẹ bình thường nào dám trao con cái mình cho người khác, dù cho người đó quan trọng đến đâu đi nữa? Vậy mà Thiên Chúa đã làm điều đó. Người làm thế không phải vì mình, nhưng vì sự sống đời đời của chúng ta. Người không sai Con của Người đến thế gian để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Để được cứu độ và hưởng sự sống đời đời, Thiên Chúa chỉ đưa ra một điều kiện rất giản đơn “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án, kẻ không tin thì đã bị lên án rồi vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” Không chỉ trao ban Con Một cho thế gian để Con của Người chia sẻ thân phận kiếp người, mà con muốn Con của Người chịu đau khổ và chịu chết. Nhờ cái chết của Con Ngài mà nhân loại được cứu khỏi sự chết đời đời, được tha thứ mọi tội lỗi, được giao hoà cùng Thiên Chúa.

Hỏi rằng có ai dám hy sinh mạng sống mình cho người khác, ngay cả người  mình yêu thương? (Câu chuyện vị vua rất hào phóng với các hoàng tử và các quan trong triều diễn tả rất rõ điều ấy). Đức Giêsu thì khác. Ngài đã không những vâng phục Chúa Cha đến thế gian trong thân phận con người, mà Ngài còn chấp nhận bị giương cao như con rắn đồng trong sa mạc, để tất cả những ai nhìn lên Ngài thì được sống muôn đời. Thiên Chúa đã trao ban con mình để thu phục nhân loại về với Người. Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống mình để chuộc lại mạng sống của con người. Chẳng có tình yêu nào sánh bằng, chẳng có trí khôn nào hiểu thấu tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại được thể hiện nơi tình yêu tự hiến của Chúa Giêsu.

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian để ai tin vào con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời. Đức Giêsu đã diễn tả tình yêu tuyệt vời ấy qua việc tự hiến mạng sống mình vì chúng ta, chấp nhận chịu treo tất tưởi tủi nhục trên thập giá vì nhân loại. Xin cho mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay hiểu thấu và cảm nghiệm sâu sắc tình yêu tuyệt vời ấy của Thiên Chúa. Nhờ đó mà chúng ta dám nhìn lên Đức Giêsu với tất cả đức tin, niềm cậy trông, tình yêu mến và can đảm sống các nhân đức ấy trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày để tình thương yêu của Thiên Chúa thực sự đơm bông kết trái trong mọi môi trường chúng ta sống. Amen.

 
Tác giả bài viết: Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh