Muối và Ánh Sáng
Mt 5,13-16
Chính anh em là muối cho đời. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt 5, 13-14)
Phân tích
Sau khi Chúa Giêsu cho biết cần phải có 8 đức tính để được vào làm công dân Nước trời, Ngài khuyến khích các môn đệ cố gắng sống 8 đức tính ấy: người nào sống 8 đức tính ấy thì cuộc sống của người đó sẽ có ảnh hưởng tốt như muối và ánh sáng vậy.
Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt: Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường xung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
Ánh sáng thì rực rỡ huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật.
Cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh mới gây tác động: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụi xuống.
Lý do để tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải vất đi.
Suy gẫm
1. Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu tuy có khác nhau: có người ân thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sánh thế gian, hơn ai hết, người Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của người Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.
2. Muốn tác động tốt thì phải chấp nhận hy sinh, hao mòn.
3. Muối làm thức ăn thêm ngon. Là muối của cuộc đời, Kitô hữu phải sống sao cho người ta thấy được “khẩu vị” của cuộc sống, thấy sống mà vui, sống mà đáng.
Ánh sáng làm cho khung cảnh thêm huy hoàng rực rỡ. Là ánh sáng thế gian, Kitô hữu sống ở đâu thì nơi đó phải thêm hạnh phúc, tươi vui lạc quan hơn.
4. Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây ảnh hưởng rất lớn. Đức Cha Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh rơi lọ nước. Vị Linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên: “Cút đi và đừng bao giờ trở lại đây nữa.” Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy tên là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính tòa, lúc đó tôi lên bảy tuổi. Trong một phiên giúp lễ tôi cũng đánh rơi lọ rượu. Tôi sợ tưởng đến chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ vào học ở trường nào? Con có bao giờ nghe nói Louvain không?” Tôi đáp: “Thưa Đức cha chưa.” Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường đại học Louvain.” Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức Linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về một hướng này, còn Titô đi về hướng ngược lại.
5. “Chính anh em là muối cho đời” (Mt 5,13)
Vừa rồi tôi có dịp ra Huế. Khi lên đèo hải vân, tôi thấy mấy người công nhân đang đập đá, mặt nhễ nhãi mồ hôi, chiếc áo bạc màu bám chặt lấy thân gầy. Và tôi tự hỏi: “Nếu không có những giọt mồ hôi đó, không có những tấm lưng cong oằn, cháy nắng ấy thì đèo hải vân liệu có rộng hơn, đẹp hơn và an toàn hơn cho khách đi đường trong đó có tôi không?”
Có biết bao người trong xã hội và đang “ướp mặn” cho cuộc sống. Phần tôi, xấu hổ vì cảm thấy mình chưa phải là muối, là men cho môi trường mình đang sống. Lạy Chúa, xin cho con được trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hằng ngày.
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 17, 7-16
“Vò bột không cạn và bình dầu không giảm như lời Chúa đã dùng lời Êlia mà phán”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, giòng suối nơi Êlia ẩn náu đã cạn, vì trong xứ không mưa. Bấy giờ Thiên Chúa phán cùng Êlia rằng: “Hãy chỗi dậy, đi Sarephta thuộc miền Siđon và ở lại đó: Ta đã truyền cho một quả phụ nuôi dưỡng ngươi”. Ông liền lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: “Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống”. Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: “Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh”. Bà thưa: “Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi”. Êlia trả lời bà rằng: “Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy, trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: “Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi, cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất”. Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó, hũ bột không cạn và bình dầu không vơi, như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.