KRAKOW. Sáng nay, vào lúc 10h (giờ Balan), nhân dịp tham dự Đại Hội Giới trẻ Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxico đã dâng thánh lễ và có buổi gặp gỡ với các linh mục, tu sĩ, những người sống đời dâng hiến và các chủng sinh tại Krakow.
Đức Thánh Cha đã có một bài chia sẻ rất ấn tượng, lấy ý tưởng từ đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan, trong đó Đức Giêsu đã hiện ra với Toma để củng cố lòng tin cho ông. Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đến ba điểm: một nơi chốn, một người môn đệ và một quyển sách.
Liên quan đến nơi chốn, ngài có ý nói đến căn phòng tiệc ly, nơi các cánh cửa đều đóng kín vì các môn đệ còn nhiều sợ hãi. Nhưng Đức Giêsu đã đi băng qua cánh cửa ấy mà trao ban cho các ông một sứ mạng. Qua ý tưởng này, Đức Thánh Cha muốn mời gọi các linh mục tu sĩ ý thức hơn về ơn gọi của mình và dám bước ra khỏi chính mình để thực thi điều Thiên Chúa muốn.
Qua việc phân tích hình ảnh Toma, Đức Thánh Cha mời gọi các tu sĩ hãy đụng chạm đến thân thể cực thánh của Chúa qua việc tiếp xúc và đụng chạm đến những người nghèo, những người mà Chúa đã trao phó cho họ.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha kêu gọi các linh mục tu sĩ hãy trở thành những người viết nên cuốn Tin Mừng lòng thương xót của Thiên Chúa qua cuộc sống của mình.
Sau đây là toàn văn bài chia sẻ của Ngài.
Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe (x.Ga 20,19-31) nói với chúng ta về một nơi, một người môn đệ và một quyển sách. Một nơi chốn: đây cũng chính là nơi mà các môn đệ tụ họp với nhau vào buổi tối phục sinh; chúng ta chỉ đọc thấy rằng các cửa đều đóng kín (x.c.19). Tám ngày sau, các môn đệ lại tụ họp với nhau một lần nữa và các cửa vẫn tiếp tục đóng kín (x.c.26). Đức Giêsu hiện ra, đứng giữa các ông và trao ban cho các ông bình an, Thần Khí và việc tha tội: bằng một lời, lòng thương xót của Thiên Chúa. Đằng sau các cánh cửa được đóng kín là lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho các môn đệ của Ngài: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (c.21).
Đức Giêsu sai đi. Ngay từ đầu, Ngài đã muốn các môn đệ trở thành một Giáo Hội “di động”, một Giáo Hội đi vào thế giới. Và Ngài muốn Giáo Hội làm điều này như Ngài đã làm. Chúa Cha đã không sai Ngài vào thế giới để thực thi quyền lực, nhưng là mang lấy hình hài của một người nô lệ (x.Pl 2,7); Ngài đến không phải để “được phục vụ nhưng là để phục vụ” (Mc 10,45) và mang Tin Mừng đến cho mọi người (x.Lc 4,18). Cũng theo một cách thức như thế, các kẻ đi theo Ngài cũng được sai đi trong mọi thời đại. Có một nghịch lý ở đây: bất cứ nơi nào các môn đệ đóng cửa lại vì sợ hãi, Đức Giêsu lại sai họ đi vào sứ mạng. Ngài muốn họ mở cửa ra và ra đi truyền rao sự tha thứ và bình an của Thiên Chúa, với quyền năng của Thánh Thần.
Lời mời gọi này cũng nhắm đến chúng ta. Làm sao chúng ta có thể không nghe lời vang vọng thỉnh cầu của Thánh Gioan Phaolo II: “Hãy mở cửa ra?”. Tuy nhiên, là những linh mục và người sống đời dâng hiến, trong cuộc sống của mình, chúng ta vẫn thường bị cám dỗ đóng kín mình và trong vùng an toàn của mình, vì sợ hãi hay vì muốn được tiện nghi. Nhưng Đức Giêsu hướng chúng ta đến con đường một chiều: đó là đi ra khỏi con người của chúng ta. Đó là con đường một chiều, không có vé về, không có đường ngược lại. Điều đó đòi buộc chúng ta phải ra khỏi chính mình, liều mất mạng sống mình vì Ngài (x.Mt 8,35) và dấn thân trên con đường tự hiến. Đức Giêsu và toàn bộ hành trình của Ngài không bao giờ là nửa vời, không bao giờ đóng kín cửa, Ngài không bao giờ sống hai mặt. Ngài muốn chúng ta phải nhẹ gánh trên hành trình theo Ngài, từ bỏ những an toàn của bản thân và chỉ có Ngài là sức mạnh duy nhất của chúng ta.
Nói cách khác, đời sống của những người môn đệ thân tín của Đức Giêsu, đời sống mà chúng ta đang được mời gọi để bước theo, phải được định hình bằng một tình yêu cụ thể, một tình yêu được ghi khắc bằng sự phục vụ và sự sẵn sàng. Đó là một cuộc sống mà không hề có không gian bị đóng kín, không có khoản tài sản riêng tư chỉ dành cho mình. Những ai chọn khuôn đời sống mình theo Giêsu thì không còn chọn không gian riêng cho mình; họ đến nơi được sai đi, mau mắn đáp lại lời của Đấng mời gọi họ. Họ không chọn thời gian cho riêng mình. Nhà mà họ sống không thuộc về họ vì Giáo Hội và thế giới là toàn bộ không gian mở cho sứ mạng của họ. Gia tài của họ là đặt Thiên Chúa vào ngay tâm điểm đời sống mình và không tìm kiếm điều gì khác cho chính họ. Vì thế, họ không thích trở nên trung tâm của mọi sự; họ không xây dựng nền tảng đời mình trên quyền lực của thế giới mau qua này, cũng không sống trong vùng an toàn làm tổn hại đến việc loan báo Tin Mừng. Họ không phí phạm thời gian lên kế hoạch cho một tương lai được đảm bảo để không trở nên cô lập và buồn tẻ, đóng kín trong những bức tường hẹp của sự thê lương và sự tự tôn chán ngắt. Cố gắng tìm kiếm hạnh phúc nơi Thiên Chúa, họ không hài lòng với một cuộc sống tầm thường, nhưng bừng cháy niềm khao khát muốn làm chứng và đến với người khác. Họ muốn đánh liều và ra đi, không bị giới hạn bởi những con đường đã bị cháy xạm nhưng mở ra và trung thành theo con đường mà Thần Khí chỉ cho. Hơn hết mọi sự, họ bừng lên niềm vui khi được ra đi loan báo Tin Mừng.
Thứ đến, Tin Mừng ngày hôm nay trình bày cho chúng ta một người môn đệ tên là Toma. Với sự chần chừ, không hiểu cũng như có chút gì đó cứng lòng, người môn đệ này phần nào cũng giống như chúng ta và chúng ta cũng thấy mình giống vị ấy. Dù không biết, nhưng người môn đệ này đã trao ban cho chúng ta một món qua lớn lao: ngài mang chúng ta đến gần Chúa hơn, vì Thiên Chúa không ẩn mình khỏi những ai tìm kiếm Ngài. Đức Giêsu tỏ cho Toma thấy những vết thương vinh quang của Ngài; Ngài để cho ông đụng chạm bằng đôi bàn tay của mình vào sự dịu ngọt vô biên của Thiên Chúa, những dấu chỉ rõ ràng cho thấy Ngài đã chịu đau khổ vì tình yêu dành cho nhân loại to lớn như thế nào. Đối với chúng ta, những người môn đệ của Đức Giêsu, thật quan trọng biết mấy khi chúng ta biết để cho nhân tính của mình đụng chạm đến thân thể của Chúa, để mang đến với Ngài toàn bộ con người chúng ta với trọn vẹn niềm tin và sự chân thành. Như Đức Giêsu đã nói với Thánh Faustina, Ngài rất hạnh phúc khi chúng ta chia sẻ với Ngài mọi thứ: Ngài không bao giờ cảm thấy chán nản với cuộc sống của chúng ta dù Ngài đã biết hết rồi; Ngài chờ đợi chúng ta đến để chia sẻ với Ngài từng biến cố của đời sống chúng ta (x. Nhật ký, 6,9.1937). Đó là con đường tìm kiếm Thiên Chúa: chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa qua lời cầu nguyện trong sáng và không sợ hãi khi trao dâng cho Ngài mọi rắc rối, những đấu tranh và chịu đựng của ta. Trái tim Đức Giêsu sẽ bị chinh phục bằng sự cởi mở chân thành, bằng con tim biết thừa nhận và thốt lên những yếu đuối của mình nhưng vẫn luôn tin rằng chính nơi những yếu đuối ấy, lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ hoạt động. Đức Giêsu đang mời gọi chúng ta điều gì? Ngài khao khát những con tim thật sự đã dâng hiến cho Ngài, những con tim kín múc sự sống từ sự tha thứ của Ngài để có thể tuôn chảy lòng thương cảm đến anh chị em. Đức Giêsu muốn những con tim biết mở ra và nhẹ nhàng hướng đến người yếu đuối, chứ không phải là những con tim chai đá. Ngài muốn những con tim hiền lành và trong suốt, không đóng kín trước những ai mà Giáo Hội trao phó cho họ để họ hướng dẫn. Những người môn đệ không bao giờ ngần ngại đặt câu hỏi, họ có đủ dũng lực để đối diện với những băn khoăn và mang chúng đến với Chúa, với những người huấn luyện và bề trên của họ mà không tính toán hay che giấu. Một người môn đệ trung tín là người biết luôn cảnh giác nhận định, vì họ biết rằng con tim họ phải luôn được huấn luyện hàng ngày, bắt đầu với việc huấn luyện tâm cảm, để có thể thoát khỏi tính hai mặt giả dối trong thái độ và trong cuộc sống.
Thánh Toma Tông Đồ, với đòi hỏi của mình, rốt cuộc không chỉ tin nhận vào sự phục sinh của Đức Giêsu, nhưng còn tìm thấy nơi Đức Giêsu kho tàng lớn nhất cho cuộc đời mình: Chúa của tôi. Ngài nói với Đức Giêsu rằng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” (c.28). Mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện với Chúa bằng những lời tuyệt vời này: Ngài là gia nghiệp đời con, là con đường con dõi bước, là cốt tuỷ đời con, là tất cả của con.
Câu cuối cùng của Tin Mừng hôm nay nói về một quyển sách: chính cuốn sách Tin Mừng cũng không chứa hết được những dấu lạ mà Đức Giêsu đã thực thi (c.30). Ngoài dấu lạ lớn lao về lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta có thể nói rằng không còn cần thêm gì nữa. Tuy nhiên, có một thách đố vẫn còn đó. Vẫn còn chỗ để cho chúng ta, những người đã lãnh nhận Thần Khí của tình yêu và được mời gọi để rao truyền lòng thương xót, thực thi những dấu lạ. Có thể nói rằng, quyển sách sống động về lòng thương xót của Thiên Chúa vốn cần tiếp tục được đọc đi đọc lại vẫn còn nhiều chỗ trống. Đó vẫn còn là một quyển sách mở mà chúng ta được mời gọi để viết tiếp theo cùng một phong cách như vậy, bằng những việc làm thể hiện lòng thương xót mà chúng ta thực thi. Tôi muốn hỏi anh chị em điều này: những trang sách của anh chị em trông như thế nào? Chúng có trống không? Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta điều này. Xin Mẹ, người đã hoàn toàn đón nhận Lời Thiên Chúa vào trong đời sống của mình (x. Lc 8,20-21), ban ơn cho chúng ta, giúp chúng ta trở thành những tác giả sống động của Tin Mừng. Xin Mẹ Lòng Thương Xót dạy chúng ta biết chăm lo cách cụ thể những vết thương của Đức Giêsu nơi những anh chị em đang cần đến, những ai đang ở ngay bên hoặc đang ở xa, các bệnh nhân và người tị nạn, bởi vì qua việc phục vụ những ai đang chịu đau khổ, chúng ta tôn vinh thân xác Đức Ki-tô. Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta biết dấn thân cách hoàn toàn vì lợi ích của những tín hữu được trao phó cho chúng ta, và biết quan tâm đến nhau như những anh chị em thực thụ trong sự hiệp thông với Giáo Hội, Mẹ thánh của chúng ta. Anh chị em thân mến, mỗi người trong chúng ta nắm giữ trong tim mình một trang sách cá nhân của lòng thương xót Chúa. Đó là câu chuyện lời mời gọi của riêng chúng ta, là tiếng nói tình yêu đã cuốn hút chúng ta và biến đổi đời sống chúng ta, dẫn đưa chúng ta đến chỗ từ bỏ mọi sự vì lời Ngài và để đi theo Ngài (x. Lc 5,11). Ngày hôm nay, với lòng biết ơn, chúng ta hãy nhớ lại lời mời gọi mà Chúa dành cho chúng ta, một tiếng gọi mạnh hơn bất cứ sự kháng cự và lưỡng lự nào của chúng ta. Qua việc tiếp tục cử hành Thánh lễ, trung tâm của đời sống chúng ta, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì đã băng qua cánh cửa đóng kín với lòng thương xót để kêu gọi chúng ta bằng tên, như Ngài đã làm với Toma ngày xưa, và trao ban cho chúng ta ân sủng để tiếp tục viết nên cuốn Tin Mừng tình yêu của Ngài.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ