Phương An, CND-CSA
Hỏi: Thời sinh viên tôi cũng nghĩ như bạn: “tại sao việc thụ tinh nhân tạo là tốt vì giúp các gia đình có niềm vui khi một sự sống chào đời, mà Giáo hội lại không ủng hộ?”
Trả lời:
Chào bạn,
Bây giờ mời bạn hãy cùng chúng tôi tìm hiểu một chút về “Thụ tinh nhân tạo trong ống nghiệm là gì?”; “Mang thai hộ là chi?”; và “ Tại sao Giáo hội không đồng ý những việc này?”
1 . Thụ tinh trong ống nghiệm
Khi tìm từ khóa này trên Google bạn sẽ thấy có nhiều thông tin về các dịch vụ “trọn gói” giúp tư vấn, khám và chữa hiếm muộn với nhiều mức giá rõ ràng, cùng với những kinh nghiệm của nhiều người chia sẻ… Thật vậy, thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization – IVF) đã trở nên phổ biến và theo một số người, nó là “giải pháp tối ưu” cho các cặp vợ chồng có vấn đề về sức khỏe sinh sản để có con.
Người được thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên trên thế giới là Louise Joy Brown. Cô sinh ngày 25-7-1978 ở Bệnh viện Đa khoa Oldham, Anh,… Tại Việt Nam, ngày 30-4-1998, Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ đã đón 3 bé chào đời – ca đầu tiên nhờ thụ tinh trong ống nghiệm.
Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm khá phức tạp. Đó là cách chọn lọc trứng và tinh trùng để thụ tinh tạo thành phôi, phôi sau 3-5 ngày có nhiều tế bào sẽ được chuyển vào tử cung mẹ.
Theo Bệnh viện Từ Dũ, người vợ muốn thụ tinh trong ống nghiệm sẽ được hẹn ngày để chuyển phôi, phôi trữ được rã đông trong phòng lab, tiếp tục đặt thuốc để hỗ trợ phôi phát triển.
– Trường hợp người vợ phải xin trứng: Người cho trứng đến phòng khám vào ngày thứ 2 của vòng kinh để làm các xét nghiệm cơ bản. Nếu đủ điều kiện, hai người xin và cho trứng được làm các xét nghiệm tiền mê và khám tiền mê. Sau đó uống thuốc nhằm điều chỉnh cho kinh nguyệt hai người xin – cho gần như trùng nhau. Người cho trứng được hẹn ngày tiêm thuốc kích thích buồng trứng, siêu âm theo dõi nang noãn và chọc hút trứng. Người xin trứng uống thuốc chuẩn bị nội mạc tử cung để tiếp nhận phôi và mang thai, được siêu âm theo dõi và điều chỉnh thuốc.
– Trường hợp người chồng phải xin tinh trùng: Dành cho những người chồng không có tinh trùng trong tinh dịch do bị tắc nghẽn, thì việc phẫu thuật lấy tinh trùng là phương pháp được dùng.
Vào ngày chọc hút trứng, người chồng tới bệnh viện lấy tinh trùng. Nếu người chồng ở xa, không thể tới lấy tinh trùng trong ngày bơm tinh trùng hoặc chọc hút trứng thì cần trữ tinh trùng trước.
Trứng và tinh trùng được cho thụ tinh (thường bằng kỹ thuật ICSI – Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng). Phôi được theo dõi và chuyển phôi cho vợ 2 – 3 ngày sau chọc hút trứng.
Sau khi trứng và tinh trùng thụ tinh, phôi được chuyển vào buồng tử cung để làm tổ và phát triển thành thai. Thất bại sau khi đã chuyển phôi lớn gấp 2 lần.
Tuy nhiên, không phải trường hợp hiếm muộn nào cũng có thể thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Phương pháp này chỉ khả thi đối với các cặp vợ chồng có nguyên nhân gây vô sinh không làm mất đi hoàn toàn khả năng thụ tinh của trứng và tinh trùng. Bên cạnh đó thụ tinh trong ống nghiệm tốn nhiều tiền.
Tóm lại, bạn thấy việc thụ tinh nhân tạo trên không xảy ra trong bối cảnh tình yêu của đôi vợ chồng và trái tự nhiên. Một lý do rất quan trọng khiến Giáo hội cấm thụ tinh ống nghiệm là do họ tạo ra nhiều phôi, sau đó giết bỏ các phôi xấu, họ chỉ lấy một phôi tốt nhất, và như thế vi phạm điều răn thứ 5: Chớ giết người.
- Mang thai hộ
- Có hai trường hợp có thể diễn ra:
– Một là khi người phụ nữ bằng lòng cho sử dụng trứng của mình để phối hợp với tinh trùng của người không phải là chồng mình để tạo thành hợp tử qua phương pháp thụ tinh nhân tạo. Sau đó phôi được cấy trở lại trong tử cung của phụ nữ kia cho đến khi bé được sinh ra và trao cho vợ chồng người đã thuê theo giao kèo.
– Hai là người phụ nữ đồng ý cho mượn tử cung của mình để tiếp nhận một phôi thụ tinh bởi trứng và tinh trùng của hai người khác nào đó và chỉ mượn tử cung của mình để mang thai. Lúc này, hợp tử được thụ thai nhân tạo với trứng và tinh trùng của người khác và được cấy vào tử cung của phụ nữ ưng thuận mang thai hộ để lấy tiền của người mướn. Đây là trường hợp một người nữ mang thai cho người phụ nữ khác khi người phụ nữ này không có khả năng mang thai nhưng vẫn có tâm nguyện mong muốn làm mẹ.
Đương nhiên pháp luật Việt Nam chỉ cho phép việc mang thai hộ này khi tuân thủ đủ quy định của nhà nước về việc sinh con và với mục đích nhân đạo chứ không phải thương mại. Vì hoàn cảnh, người vợ không thể mang thai, phải nhờ một người phụ nữ khác mang bào thai của cặp vợ chồng đó. (Người này này phải là người từng có con, được chồng bà ấy đồng ý, ở độ tuổi phù hợp, là bà con bên chồng hoặc vợ của cặp vợ chồng muốn nhờ, được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý)… Đứa con do tinh trùng của chồng và trứng của vợ hoặc một phụ nữ mang thai hộ bằng lòng cho sử dụng trứng của mình để phối hợp với tinh trùng của người không phải là chồng mình để tạo thành hợp tử.
- Những rắc rối xoay quanh
– Để thực hiện được thủ tục liên quan đến mang thai hộ thì cả phía người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ phải đáp ứng được các quy định cụ thể của pháp luật hiện hành.
– Việc lấy trứng của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con, thông thường có chuyện phát sinh vấn đề như tranh chấp về con cái, cấp dưỡng.
– Trong trường hợp chưa giao đứa trẻ mà cả hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, thì sẽ xử lý tình huống ấy như thế nào?
– Đứa trẻ sau khi sinh ra là con ai? Người mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để hưởng lợi về kinh tế hoặc một lợi ích khác… Những điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội.
- Giáo hội nghĩ gì về hỗ trợ sinh sản thông qua y học?
- Giáo hội thấy trước những nguy cơ khi con người được “làm ra” chứ không phải được “sinh ra”
– Phôi sau 3-5 ngày có nhiều tế bào sẽ được chuyển vào tử cung mẹ. Bởi vì cần chọn lọc trứng và tinh trùng để thụ tinh tạo thành phôi, phôi phải được trữ và rã đông trong phòng lab trước đó. Như vậy, con người được lưu trữ theo kiểu này sao? Thế có phù hợp với phẩm giá của một người?
– Các bác sĩ sẽ chuyển 1 phôi, 2 phôi, hay 3 phôi tùy thuộc vào nhu cầu của đôi vợ chồng. Cơ hội mang song thai, đa thai là có thể xảy ra. Khả năng phá bỏ các thai còn lại để chọn thai nhi tốt nhất theo quan điểm của gia đình thì cũng dễ hiểu.
– Việc “mang thai hộ” có thể trở thành một kỹ nghệ vì biến việc sinh con, vốn là đặc quyền và là quà tặng vô cùng quý giá của Chúa ban cho những ai được mời sống ơn gọi hôn nhân, thành một việc như mọi dịch vụ kinh doanh khác trên thị trường. Hơn thế nữa, việc này càng phá giao ước hôn nhân đòi buộc vợ chồng kết hợp mật thiết với nhau, cộng tác với Chúa trong chương trình sáng tạo. Việc ấy cũng làm thương tổn thiên chức làm mẹ của phụ nữ vì đã khiến những người làm nghề này thành những “máy sinh sản”.
– Thụ tinh nhân tạo dị hợp xúc phạm bản chất đơn nhất của hôn nhân, vì phôi do sự gặp gỡ giữa giao tử của hai người, mà ít nhất một trong hai người ấy không thuộc cặp vợ chồng kết hợp trong hôn nhân. Ngoài ra, việc làm mẹ thay là một thiếu sót khách quan đối với bổn phận của tình mẫu tử, trung tín giữa vợ chồng. Nó còn ảnh hưởng tới đứa con và quyền được thai nghén cưu mang, sinh ra bởi chính mẹ mình. Việc đó gây thiệt hại cho gia đình khi chia cắt các yếu tố cấu thành gia đình: thể xác, tâm linh và đạo đức.
- b. Hành vi vợ chồng mang ý nghĩa cao quý
Không phải là không quan tâm đủ đến con người với các nhu cầu yêu thương và hạnh phúc trần thế, nhưng vì Giáo hội trân trọng con người, ra sức gìn giữ phẩm giá của họ và mong muốn họ được hạnh phúc đích thật. Hiến chế Gaudium et Spes khẳng định hành vi vợ chồng trong bối cảnh hôn nhân và gia đình “là hành vi cao quí và chính đáng” (số 49.)
Thêm nữa, Huấn Quyền cho rằng nếu kỹ thuật nào không thay thế hành vi vợ chồng, mà chỉ trợ giúp hành vi ấy đạt đến mục tiêu truyền sinh thì được chấp nhận về mặt luân lý. Theo lẽ đó, Giáo hội đánh giá cao các nỗ lực nghiên cứu của khoa học trong lãnh vực giúp các cặp vợ chồng vô sinh. Tuy nhiên, Giáo hội nhấn mạnh tính thánh thiêng của hôn nhân. Việc dùng kỹ thuật can thiệp vào tạo sinh phải giữ được sự kết hợp vợ chồng cách tự nhiên và tôn trọng sự sống ngay từ lúc khởi đầu.
- c.Hoàn cảnh ra đời của con người phải là hôn nhân và gia đình
Giáo hội dạy, “Con người ra đời phải là hoa trái của hành động trao hiến hỗ tương của cha mẹ, được thể hiện nơi hành vi vợ chồng”. Họ được mời gọi tham dự vào tình yêu của Ba Ngôi hằng sống. Chính vì phẩm giá con người cao cả, nên hoàn cảnh ra đời cũng phải xứng hợp.
Sứ điệp trung tâm mà Giáo hội loan báo là “loài người được Thiên Chúa yêu thương”, con đường Giáo hội muốn dẫn các bạn đi là “tình yêu và sự thật”.
Như vậy, cùng với Giáo hội, bạn có thể bênh vực và bảo vệ những giá trị cao quý của con người, giúp họ có cuộc sống xứng với nhân vị,…
- d. Lời khuyên cho vợ chồng vô sinh
Là người Kitô hữu, “mọi người nên ý thức sự sống và nhiệm vụ lưu truyền sự sống không chỉ bị giới hạn ở đời này, việc đánh giá chân thật và ý nghĩa đầy đủ của chúng chỉ có thể hiểu được khi quy chiếu về vận mệnh vĩnh cửu của con người.” (GLGHCG 2371).
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chúng ta thấy Elkanak khuyên vợ mình là bà Hannah, khi bà ấy khóc lóc không chịu ăn uống vì không thể sinh con: “Tại sao em khóc, tại sao em không ăn? Anh đây không tốt hơn mười đứa con trai sao?” (1 Sm 1,1-8). Quả vậy, yêu nhau thực sự, đau khổ sẽ làm hai người gắn bó, cần đến nhau hơn.
Mong sao họ chấp nhận “thân phận người”, lạc quan để vượt qua u buồn. Trong số 178-179, tông Huấn Amoris Laetitia có nói tới “tính sinh hoa trái mở rộng”:
Hôn nhân không được thiết lập chỉ để sinh con cái… nếu họ không có con, thì hôn nhân vẫn giữ được đặc điểm như một cộng đoàn và hiệp thông sự sống trọn vẹn và vẫn duy trì được giá trị và tính bất khả tiêu của nó. Cũng thế, “chức phận làm mẹ không phải chỉ là một thực tại sinh học, nhưng được phát biểu nhiều cách khác nhau”. Tôi khuyến khích những người không thể có con hãy mở rộng tình thương của họ để bảo bọc những ai thiếu một hoàn cảnh gia đình thích đáng. Họ sẽ không ân hận vì đã quảng đại. Đó là hành vi hiến tặng ơn phúc gia đình cho một người không có ơn phúc này. Những người chấp nhận thách đố nhận con nuôi cách vô điều kiện và nhưng không quả đã trở nên máng chuyển tình yêu của Thiên Chúa…
Nói tóm lại, đành rằng Giáo hội đồng cảm với các đôi vô sinh nhưng trên phương diện nhân linh và thần linh, việc thụ tinh nhân tạo không được Giáo hội chấp nhận vì những lý do nêu trên.
Ước mong bạn kiên nhẫn tìm hiểu chiều sâu của giáo huấn trước khi các bạn thầm trách Giáo hội. Cuộc đối thoại giữa chúng ta vẫn còn tiếp diễn trong đời sống, bạn ạ!
Tham khảo thêm những bài cùng chủ đề:
Đức Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn: Vấn đề “Hiếm muộn – Thụ tinh nhân tạo – Mang thai hộ”
BS Trần Như Ý Lan, CND: Phôi từ ba cha mẹ hay hiến tặng ty lạp thể: Một nhận định trên phương diện Y Khoa và Luân Lý Công Giáo
Linh mục Antôn Nguyễn Văn Tuyến: Vấn đề phá thai và hiếm muộn
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 4, Nxb Tôn Giáo, 04/2021)
WHĐ (16.3.2023)