Đức Giê-su Ki-tô – Đường củng cố đức tin

Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta biết rằng khi con người ý thức về những giới hạn của bản thân cũng như muôn vật muôn loài cũng là khi con người quan tâm về thế giới siêu việt. Quả thực, là con người, không ai thỏa mãn với những gì trong không gian và thời gian bởi vì tất cả phải đối diện với cảnh chết chóc, hư nát, tàn lụi. Trong các hình thái xã hội, con người khó có thể sống và hoạt động hiệu quả nếu không có ‘hình thức đức tin’ nào đó. Đức tin là nền tảng cuộc sống, giúp con người bình an, hạnh phúc và hy vọng giữa những bấp bênh, khó khăn, thách đố của thời cuộc. Người ta thường nói rằng ‘không ai là một hòn đảo’. Đó là lý do tại sao con người cần tin tưởng vào người khác và nhờ sự trợ giúp của họ để có thể phát triển lành mạnh. Chẳng hạn, con cái tin tưởng vào cha mẹ về tình thương không lay chuyển; học sinh tin tưởng vào thầy cô về kiến thức mà họ lĩnh hội; bệnh nhân tin tưởng vào bác sĩ về phương thức chữa trị. Tâm hồn con người sẽ chật chội, nghèo nàn, tăm tối và vô vọng biết bao nếu đức tin vắng bóng trong cuộc đời mình!

Đức tin của các Ki-tô hữu gắn liền với mặc khải Thiên Chúa trong dòng lịch sử mà cao điểm là sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su giữa lòng trần thế. Do đó, ưu tiên của các Ki-tô hữu không phải là chú tâm vào những nghi thức, luật lệ, tuyên tín trừu tượng hay những gì phải tin, những điều phải giữ, những việc phải làm mà là Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong thân phận con người. Công Đồng Vatican II khẳng định: “Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể” (GS 22). Điều này có nghĩa rằng, tự thân, con người không thể hiểu biết cách thích hợp về căn tính, đời sống và sứ mệnh của mình giữa lòng thế giới. Nhờ Đức Giê-su, con người mới có thể nhận ra phẩm giá cao trọng của mình giữa muôn vật muôn loài, đồng thời, cũng nhận ra Người là Hy Vọng đích thực cho gia đình nhân loại cũng như muôn vật muôn loài.

Bài viết ‘Đức Giê-su Ki-tô, Đường Củng Cố Đức Tin’ được trình bày dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo theo thứ tự như sau: (1) Khái Niệm Đức Tin; (2) Củng Cố Đức Tin Trong Cựu Ước; (3) Đức Giê-su, Đường Củng Cố Đức Tin; (4) Đức Tin Trong Đời sống Các Ki-tô Hữu.

I. KHÁI NIỆM ĐỨC TIN

Trong tiếng Do-thái, ’אֱמוּנָה’ (emunah/ faith) có nghĩa là ‘tin’ hay ‘đức tin’. Từ ‘emunah’ xuất phát từ động từ ‘אמן’/ aman với nghĩa là làm cho vững chắc (confirm), nâng đỡ (support), dựa vào (rely on). Từ ‘emunah’ không chỉ có nghĩa ‘tin’ hay ‘đức tin’ mà còn có nghĩa ‘trung tín’ (faithfulness), chẳng hạn, đức tin của con người và sự trung tín của Thiên Chúa. Từ ‘amen’ mà chúng ta thường đọc liên hệ mật thiết với từ ‘emunah’, ‘aman’, ‘emeth’ trong tiếng Do-thái. Nhìn chung, đức tin trong tiếng Do-thái liên quan đến ‘việc làm’ hơn là ‘tư tưởng’, nghĩa là liên quan đến hành động của con người hơn là điều con người suy gẫm hay hiểu biết. Từ tương đương với từ ‘emunah’ của tiếng Do-thái trong tiếng Hy-lạp là ‘πιστίς’ (pistis) ‘πιστεύω’ (pisteuô), ‘ἀλήθεια’ (alètheia) [tương đương với tiếng La-tin là: fides, credere, veritas]. Tương tự như từ ‘emunah’, ‘pistis’ vừa có nghĩa là ‘đức tin’ (faith), vừa có nghĩa là sự trung tín hay thành tín (faithfulness), chẳng hạn như: “Người trước đây bắt bớ chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin [τὴν πίστιν] mà xưa kia ông những muốn tiêu diệt” (Gl 1,23) hay “Chỉ có một Chúa, một đức tin [μία πίστις], một phép rửa” (Ep 4,5); “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín [καὶ τὴν πίστιν]” (Mt 23,23). Ngoài ra, tiếng Do-thái còn dùng hạn từ ‘בָּטַח’(batah/ trust, Tv 25,2) để diễn tả sự hy vọng, phó thác và tin tưởng. Từ tương đương với từ ‘batah’ của tiếng Do-thái trong tiếng Hy-lạp là ‘ἐλπὶς’ (elpis) ‘ἐλπίζω’ (elpizô), ‘πέποιθα’ (pepoitha) [tương ứng với tiếng La-tin là: spes, sperare, confido]. Ở đây mang nghĩa thứ ba ‘πέποιθα’ (pepoitha/ trust/ tin tưởng): “Lạy Thiên Chúa của con, con tin tưởng nơi Ngài [ἐπὶ σοὶ πέποιθα], xin Ngài đừng để con tủi nhục, đừng để quân thù đắc chí nhạo cười con”(Tv 25,2) hay: “Đối với anh em, trong Chúa, tôi tin tưởng [ἐγὼ πέποιθα] rằng, anh em sẽ không nghĩ khác” (Gl 5,10).

Có nhiều định nghĩa về đức tin. Theo thánh Tô-ma A-qui-nô (1225-1274): “Đức tin là quán năng của tâm trí, làm cho trí năng ưng thuận đối với những cái vô hình, không hiển nhiên, và nhờ quán năng này mà đời sống vĩnh cửu được khởi sự trong chúng ta” [Fides est habitus mentis, qua inchoatur vita aeterna in nobis, faciens intellectum assentire non apparentibus] (Thomas Aquinas, Summa Theologiae II-II, q.4, a.1). Cũng theo thánh nhân: “Tin là hành động của trí năng ưng thuận đối với sự thật thiên linh, nhờ bởi mệnh lệnh của ý muốn được Thiên Chúa thúc đẩy qua ân sủng, và như vậy thì tin suy phục đối với quyết đoán tự do quy hướng về Thiên Chúa” [Ipsum autem credere est actus intellectus assentientis veritati divinae ex imperio voluntatis a Deo motae per gratiam, et sic subiacet libero arbitrio in ordine ad Deum] (Thomas Aquinas, Summa Theologiae II-II, q.2, a.9). Nơi con người, đức tin bao gồm ‘hai thì’: (1) Thì thứ nhất là hành động căn bản, chính yếu, nội tại (principal act), nghĩa là tin (believing) và (2) thì thứ hai là hành động ngoại tại (external act), bao gồm việc tuyên xưng và thực thi đức tin bằng đời sống chứng tá (Thomas Aquinas, Summa Theologiae II-II, q.3, a.1). Hai điểm quan trọng liên quan đến đức tin dưới nhãn quan của thánh Tô-ma A-qui-nô: (1) đức tin gắn liền với lý trí con người và (2) động lực đức tin đến từ Thiên Chúa (tác động của ân sủng). Điều này có nghĩa rằng nhờ Thiên Chúa mời gọi hay khơi dậy, con người tín thác nơi Người.

Trong diễn từ tại Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô nói: “Chính nhờ ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng một cách như họ” (Cv 15,11). Công Đồng Vatican I (1870) xác định đức tin là “đức hạnh siêu nhiên, nhờ đó, với sự linh ứng và trợ giúp của ân sủng Thiên Chúa, chúng ta tin là thật những điều Người đã mặc khải cho chúng ta, không phải bởi vì chân tính nội tại của chúng được ánh sáng tự nhiên của lý trí nhận ra, mà bởi thẩm quyền của chính Thiên Chúa, Đấng mặc khải, mà Người thì không thể sai lầm, cũng không thể lừa dối chúng ta” (DS 3008). Theo Toát Yếu Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng khiêm hạ; đó là nhân đức siêu nhiên cần thiết để được cứu độ” (TYGLGHCG 28). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo giải thích rõ thêm: “Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin tất cả những gì Người nói và mặc khải cho chúng ta cũng như những gì Hội Thánh dạy phải tin, vì Thiên Chúa là chân lý” (GLGHCG 1814). Theo ngôn ngữ của Công Đồng Vatican II: “Ðể được đức tin, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài thúc đẩy và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý” (DV 5). Như vậy, chúng ta có thể nói rằng đức tin hệ tại ở ân sủng Thiên Chúa và sự tự do cộng tác của con người. Nhờ đó, con người biết mở rộng tâm hồn mình với Thiên Chúa, Đấng là Nguyên Ủy và Cùng Đích của con người và muôn vật muôn loài.

Đức tin Ki-tô Giáo liên quan đặc biệt đến hai sự thật căn bản sau đây: (1) Con người đã sa ngã, bản tính con người bị tổn thương và tự thân, con người không thể giải thoát mình khỏi tội lỗi cũng như sự chết và (2) Đức Giê-su đã xuống thế làm người để cứu độ con người và biến đổi muôn vật muôn loài, đồng thời, mời gọi con người trở thành con cái Thiên Chúa. Nhờ mặc khải Thiên Chúa, cao điểm là Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại, chúng ta nhận thức rằng Đức tin Ki-tô Giáo mang đặc tính Ba Ngôi (Trinitarian characteristic), đặc tính Ki-tô Học (Christological characteristic), đặc tính Thánh Linh Học (Pneumatological characteristic) và đặc tính Giáo Hội Học (Ecclesiological characteristic). Trong đời sống con người giữa thế gian, đức tin vừa có tính cộng đoàn (communal) vừa có tính cá vị (personal), vừa có tính siêu nhiên (supernatural) vừa có tính lịch sử (historical), vừa có tính duy nhất (unique) vừa có tính liên vị (interpersonal).

Chúng ta cần phân biệt hai chiều kích của đức tin: (1) Đức tin khách quan fides quae (in an objective sense, toàn bộ chân lý mặc khải) và (2) đức tin chủ quan fides qua (in a subjective sense, khả năng con người tin nhận). Đức tin khách quan fides quae (‘faith which’, the faith that is believed) là đức tin không thể thay đổi (unchanging deposit faith: Kinh Thánh, Truyền Thống, Giáo Huấn). Đức tin chủ quan Fides qua (‘faith by which’, faith by which we believe) là đức tin phụ thuộc vào chủ thể (the subjective act of assent; đức tin mà con người cảm nhận cũng như đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa). Đức tin này bao gồm sự hiểu biết cá nhân hoặc tương quan giữa cá nhân đối với Thiên Chúa hay quan điểm của con người về fides quae. Đức tin của Giáo Hội fides quae không thể thay đổi, không thể sai lầm, tuy nhiên, đức tin của các tín hữu hay các cá nhân có thể sai lầm. Tính bất khả ngộ về đức tin của Giáo Hội (Church’s infallibility) đặt nền tảng trên tính bất khả ngộ của Đức Giê-su (Jesus’ infallibility). Nói cách khác, đức tin theo nghĩa khách quan fides quae chính là nội dung đức tin (content of faith), đức tin của cộng đoàn (communal faith) hay đức tin của Giáo Hội (Ecclesial faith). Trong khi đó, đức tin chủ quan fides qua là hành vi hay thực hành đức tin (act of faith), đức tin mang tính cá nhân. Các tín hữu cần ý thức về sự hòa hợp giữa đức tin khách quan fides quae và đức tin chủ quan fides qua trong học hỏi, suy niệm cũng như thực hành. Điều cần thiết là các tín hữu cần cố gắng sao cho nội dung đức tin fides quae và thực hành đức tin fides qua luôn gắn kết chặt chẽ với nhau trong đời sống mình.

Chúng ta cần phân biệt hai hình thức của động từ ‘tin’ (believe) đó là ‘tin’ và ‘tin vào’. Chẳng hạn, (1) ‘tin Đức Giê-su’, ‘tin về Đức Giê-su’, ‘tin rằng Đức Giê-su…’ (‘I believe Jesus’, ‘I believe about Jesus’, ‘I believe that Jesus…’) và (2) ‘tin vào Đức Giê-su’ (I believe in Jesus). Chẳng hạn, chúng ta ‘tin Đức Giê-su’ là Thiên Chúa, đã xuống thế làm người, sinh bởi Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh, chịu nạn chịu chết trên thập giá, chịu mai táng, phục sinh và lên trời. Nhiều người tin như vậy nhưng tư tưởng và hành động của họ không gắn bó với Người. Trong khi đó, chúng ta ‘tin vào Đức Giê-su’ bao gồm chúng ta ‘tin Người’, đồng thời, thiết lập ‘mối tương quan liên vị với Người’, tuân giữ lời Người truyền dạy bằng chính cuộc sống mình. Trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an Tông Đồ về Diễn Từ Bánh Hằng Sống giúp chúng ta hiểu rõ hơn về ‘hai hình thức tin’ này, (1) ‘tin Đức Giê-su’: Người Do-thái nói với Đức Giê-su: “Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?” (Ga 6,30); (2) ‘tin vào Đức Giê-su’: Đức Giê-su nói: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga 6,35). Người ta có thể tin tất cả những lời Đức Giê-su nói và những việc Người làm nhưng vẫn là người ngoài cuộc bởi vì tâm trí họ không mảy may kết nối với Đức Giê-su hay cuộc sống của họ xa rời với giáo huấn của Người. Như vậy, vấn đề không chỉ ‘tin Đức Giê-su’ mà còn ‘tin vào Đức Giê-su’, nghĩa là tâm hồn con người luôn hướng về Đức Giê-su, gắn bó với Người, nên một với Người, thực thi lời Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Chúng ta có thể lấy ví dụ về ‘tin’ và ‘tin vào’ trong câu chuyện của các nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giê-su Hài Đồng. Trong khi các thượng tế và kinh sư là những người ‘tin’, còn các nhà chiêm tinh là những người ‘tin vào’. Bởi vì, các thượng tế và kinh sư tin Đức Giê-su được sinh ra ở Bê-lem, nhưng tâm trí họ không lay chuyển; còn các nhà chiêm tinh là những người ‘tin vào’ bởi vì họ hướng đến Đức Giê-su và thực thi thánh ý Thiên Chúa (Mt 2,1-12).

II. CỦNG CỐ ĐỨC TIN TRONG CỰU ƯỚC

Mặc khải Thiên Chúa trong Cựu Ước gắn liền với nhiều chứng nhân đức tin, chẳng hạn như Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, Giu-se, Mô-sê, Đa-vít và các ngôn sứ. Nhờ Thiên Chúa khai mở tâm trí, Abraham ‘có thể nhìn thấy trước’ viễn cảnh của hậu duệ ông giữa gia đình nhân loại. Điều Thiên Chúa mặc khải là lời hứa phục hồi, lời hứa sự sống viên mãn, lời hứa cứu độ. Abraham trở thành mẫu gương đức tin cho mọi người. Theo trình thuật sách Sáng Thế: “Đức Chúa phán với ông Áp-ram: Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành” (St 12,1-2). Đức Chúa nói với ông: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Người lại phán: Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó! Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,5-6). Theo dòng lịch sử, dân Do-thái luôn nhìn nhận Áp-ra-ham là mẫu gương đức tin cho bản thân mình cũng như cho cả dân tộc. Chẳng hạn, qua phép lạ tại Biển Đỏ: “Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người” (Xh 14,31).

Sống giữa các dân tộc với tôn giáo đặc thù của họ, đặc biệt hai hình thức tôn giáo phổ biến là đa thần (polytheism) và phiếm thần (pantheism), dân Do-thái được mời gọi tin tưởng vào Thiên Chúa duy nhất như lời của Mô-sê: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng. Anh em phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Đnl 6,4-7). Theo dòng lịch sử, những người lãnh đạo Do-thái không ngừng mời gọi toàn dân tin tưởng vào Thiên Chúa, chẳng hạn, vua Giơ-hô-sa-phát nói: “Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem hãy nghe ta: Đức Chúa là Thiên Chúa các ngươi, cứ tin tưởng vào Người, các ngươi sẽ tồn tại; cứ tin lời các ngôn sứ của Người, các ngươi sẽ chiến thắng” (2 Sb 20,20). Điều này có nghĩa rằng đức tin của dân Do-thái chi phối mọi khía cạnh của đời sống họ, đồng thời, trở thành ‘kim chỉ nam’ hay ‘hồn dân tộc’ qua muôn thế hệ. Đức tin của người Do-thái vượt qua những xác tín thiên về lý trí hay lý luận lô-gích để vươn tới sự tín thác hoàn toàn vào ý định và chương trình của Thiên Chúa đối với họ.

Đức tin đem đến cho dân Do-thái sự phong nhiêu, bình an cũng như hy vọng vào viễn cảnh tương lai xán lạn. Thiên Chúa luôn trung tín và mời gọi dân Do-thái thực thi giáo huấn của Người. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng dân Do-thái thường bất tuân, bất tín, phản nghịch Thiên Chúa. Họ thiếu kiên nhẫn trong đức tin của mình, chẳng hạn: “Dân thấy ông Mô-sê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông A-ha-ron và nói với ông: Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập” (Xh 32,1) hay: “Cho đến bao giờ, chúng không chịu tin vào Ta, mặc dầu Ta đã làm bấy nhiêu dấu lạ ở giữa chúng?” (Ds 14,11). Thiên Chúa sửa trị dân Do-thái khi đức tin của họ bị biến dạng, hay thay đổi: “Nghe đây, lũ dân u mê, dại dột, có mắt mà không thấy, có tai mà chẳng nghe” (Gr 5,21).

Các sách Cựu Ước cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa không ngừng củng cố đức tin của dân Do-thái, chẳng hạn như lời của Người qua miệng ngôn sứ I-sai-a tới vua A-khát: “Nếu các ngươi không vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững” (Is 7,9). Tác giả sách Huấn Ca viết: “Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người” (Hc 2,6). Một trong những nguyên nhân dẫn đến muôn hình thức thất bại của dân Do-thái là sự bất tín: “Giả như các ngươi trở lại và ở yên, hẳn các ngươi đã được cứu thoát; giả như các ngươi bình tĩnh và tin tưởng, ắt các ngươi đã nên hùng mạnh; thế nhưng các ngươi đã không muốn!” (Is 30,15). Các Thánh Vịnh cho phép chúng ta hiểu hơn về sự cần thiết của đức tin trong việc thiết lập và gìn giữ mối tương quan với Đức Chúa, chẳng hạn: “Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa, chẳng vào hùa với bọn kiêu căng và những kẻ theo đường gian ác” (Tv 40,5); “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118,8-9); “Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. Họ tắt hơi là trở về cát bụi, dự định bao điều ngày ấy tiêu tan” (Tv 146,3-4).

Các chứng nhân đức tin Cựu Ước không chỉ là mô mẫu cho dân Do-thái trong quá khứ mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố và diễn tả đức tin của mọi người trong Tân Ước. Chẳng hạn, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái mời gọi mọi người chiêm ngắm những khuôn mặt điển hình trong Cựu Ước: Nhờ đức tin, ông A-ben dâng của lễ lên Thiên Chúa, Kha-nốc được Thiên Chúa đem đi, Nô-ê nhận ra chương trình Thiên Chúa, Xa-ra hiếm muộn được thụ thai và sinh con, Áp-ra-ham hiến tế I-xa-ác, I-xa-ác chúc phúc cho Gia-cóp và Ê-xau, Giu-se đưa ra chỉ thị liên quan đến hài cốt của ông, Mô-sê trung thành với Dân được Thiên Chúa tuyển chọn (Dt 11,4-29). Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái còn đề cập những nhân vật đặc biệt khác nữa trong lịch sử dân tộc mình, chẳng hạn như Ghít-ôn, Ba-rắc, Sam-sôn, Gíp-tác, Đa-vít, Sa-mu-en và các ngôn sứ: “Nhờ đức tin, các vị này đã chinh phục các nước, thực hành công lý, đạt được những gì Thiên Chúa đã hứa… dập tắt lửa hồng mãnh liệt, thoát khỏi lưỡi gươm… lướt thắng bệnh tật mà trở nên mạnh mẽ, đã tỏ ra dũng cảm tại chiến trường, và đẩy lui được quân ngoại xâm” (Dt 11,33-34). Đức tin của dân Do-thái, nhất là của các ngôn sứ và những người lãnh đạo, được kiện toàn nơi Đức Giê-su, Con Thiên Chúa trong thân phận con người giữa gia đình nhân loại.

III. ĐỨC GIÊ-SU, ĐƯỜNG CỦNG CỐ ĐỨC TIN

1. Đức Giê-su loan báo Tin mừng và củng cố đức tin

Dưới nhãn quan mặc khải Ki-tô Giáo, đức tin của gia đình nhân loại trong lịch sử cũng như của người Do-thái trong Cựu Ước quy tụ trong Tân Ước với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su. Khởi đầu thư gửi tín hữu Do-thái, tác giả viết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2); thánh Gio-an Tông Đồ thì viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Điều này có nghĩa rằng Thiên Chúa đi bước trước qua việc Đức Giê-su hiện diện trong lịch sử nhân loại để đức tin con người vốn trừu tượng có được nền tảng vững chắc là gắn kết với Người như kinh nghiệm của thánh Gio-an Tông Đồ: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1 Ga 1,1). Đức Giê-su hiện diện trong lịch sử ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rằng: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14). Như vậy, về căn bản, đức tin của con người được củng cố không phải do con người tự mình đến với Thiên Chúa mà là Thiên Chúa đến với con người nhờ Đức Giê-su.

Dưới nhãn quan Tân Ước, Người có đức tin chân thành là người được Thiên Chúa chúc phúc, chẳng hạn, sau Biến Cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a đến thăm gia đình bà Ê-li-sa-bét, bà nói với Đức Ma-ri-a: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Buổi đầu loan báo Tin Mừng, khi Phi-líp-phê nói chuyện với Na-tha-na-en về Đức Giê-su, ban đầu, Na-tha-na-en nghi ngờ về Đấng mà sách luật Mô-sê và các ngôn sứ nói đến là Đức Giê-su, con ông Giu-se, người Na-da-rét. Tuy nhiên, khi diện kiến Đức Giê-su, Na-tha-na-en ngạc nhiên vì mình chưa từng gặp Đức Giê-su nhưng Người lại biết quá khứ của mình. Tin tưởng vào Đức Giê-su, Na-tha-na-en nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” (Ga 1,49). Đức Giê-su trả lời: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa… Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người” (Ga 1,51). Tương tự như vậy, khi chứng kiến Đức Giê-su phục sinh, Tô-ma nói với Đức Giê-su: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Đức Giê-su bảo ông: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,27-29). Qua muôn thế hệ, những ai tin vào Đức Giê-su đều được chúc phúc.

Các sách Tin Mừng Nhất Lãm cho chúng ta biết những phép lạ Đức Giê-su thực hiện để diễn tả quyền năng Thiên Chúa, chẳng hạn như xua trừ ma quỷ hay chữa bệnh, luôn liên quan chặt chẽ với việc củng cố đức tin của những người liên hệ. Tương tự như vậy, trình thuật Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta nhận thức rằng các dấu lạ của Đức Giê-su đối với dân chúng nhằm củng cố đức tin của mọi người. Chẳng hạn, sau khi trình thuật dấu lạ đầu tiên trong hành trình trần thế của Đức Giê-su là biến nước thành rượu tại tiệc cưới Ca-na, thánh Gio-an giải thích: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2,11). Sau khi trình thuật dấu lạ cuối cùng, dấu lạ hồi sinh La-da-rô, thánh Gio-an viết: “Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người” (Ga 11,45). Đặc biệt, phần cuối Tin Mừng, thánh nhân viết: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,30-31).

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô về việc Đức Giê-su chữa người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh cho chúng ta biết rằng người cha đã đem đứa con bị bệnh động kinh tới nhờ các môn đệ Đức Giê-su giúp nhưng họ không thể làm được gì. Đức Giê-su nói: “Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem nó lại đây cho tôi” (Mc 9,19). Người cha của đứa trẻ nói với Đức Giê-su: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9,22). Đức Giê-su trả lời: “Sao lại nói ‘nếu Thầy có thể?’ Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23). Sau đó, cha của đứa trẻ thưa với Đức Giê-su: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” (Mc 9,24). Như vậy, Đức Giê-su vừa khơi dậy đức tin của người cha trong biến cố này, đồng thời, kiện toàn đức tin của ông bằng cách cho con ông khỏi bị quỷ ám. Quả thực, đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể (Mc 10,27; Lc 1,37). Qua việc cứu chữa đứa trẻ bị quỷ ám mắc bệnh động kinh, cách gián tiếp, Đức Giê-su mặc khải Người là Thiên Chúa bởi vì đứa trẻ đã chạy chữa nhiều nơi với nhiều người, kể cả các môn đệ Đức Giê-su nhưng bệnh tình không được cải thiện. Đức Giê-su đã cứu chữa đứa trẻ đồng thời đã gia tăng, củng cố đức tin cho cha của đứa trẻ, cho các môn đệ và những ai chứng kiến Người thực thi việc chữa bệnh.

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cũng cho chúng ta biết rằng, cuối hành trình trần thế, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất mầu nhiệm vượt qua. Khi Người và đám đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, có một người mù ăn xin tên là Ba-ti-mê nghe tin Đức Giê-su thì kêu lên rằng: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mc 10,47). Đức Giê-su hỏi anh ta muốn gì thì anh ta xin cho mình được nhìn thấy. Người nói với anh ta rằng anh hãy đi vì lòng tin của anh đã cứu anh. Lập tức, anh ta đứng dậy và đi trên con đường Người đi (Mc 10,52). Quả thực, mắt anh ta mù nhưng tâm anh ta sáng bởi vì anh ta tin nhận Đức Giê-su là ‘Con vua Đa-vít’ trong khi biết bao người khác mắt sáng nhưng lại không nhận ra. Danh xưng ‘Con vua Đa-vít’ chỉ Đấng Mê-si-a mà dân Do-thái hằng mong đợi. Thánh Mác-cô không cho chúng ta biết anh ta có đi với Đức Giê-su tới Giê-ru-sa-lem và chứng kiến những ngày cuối cùng của Người trong hành trình trần thế hay không, tuy nhiên, điều chúng ta biết là anh ta đã đi Đường Đức Giê-su, nghĩa là loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em mình.

Thánh Lu-ca trình thuật câu chuyện người Pha-ri-sêu tên là Si-môn mời Đức Giê-su dùng bữa nhà ông và người phụ nữ lân cận nghe tin thì cũng đến. Ông Si-môn không tỏ lòng hiếu khách theo phong tục Do-thái: Ông không đổ nước lã lên chân Đức Giê-su; không hôn Đức Giê-su; không đổ dầu ô-liu lên đầu Đức Giê-su. Ông còn phán xét cả Đức Giê-su và người phụ nữ: Nếu Đức Giê-su là ngôn sứ thì phải biết người phụ nữ tội lỗi này. Trong khi đó, người phụ nữ tội lỗi dùng nước mắt tưới chân Đức Giê-su rồi lấy tóc mà lau, sau đó lại xức dầu thơm hảo hạng lên chân Người. Đức Giê-su nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi” (Lc 7,48). Người cũng nói với người phụ nữ: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (Lc 7,50). Cách trực tiếp, Đức Giê-su củng cố đức tin của người phụ nữ và dạy cho người Pha-ri-sêu có tên là Si-môn bài học về sự hiếu khách cũng như bài học về lòng khoan dung. Cách gián tiếp, Đức Giê-su cho người Pha-ri-sêu và người phụ nữ biết rằng Người là Thiên Chúa bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính người Pha-ri-sêu nghĩ trong lòng rằng: “Ông này là ai mà lại tha được tội?” (Lc 7,49). Đặc biệt, đối với người phụ nữ, việc gặp gỡ Đức Giê-su đã củng cố đức tin của chị và từ nay, chị không tiếp tục con đường cũ tội lỗi nữa nhưng trở thành sứ giả của Đức Giê-su cho mọi người.

Đức Giê-su không chỉ củng cố đức tin cho những người Do-thái mà còn cho cả dân ngoại. Chẳng hạn, Đức Giê-su đến vùng Ghê-ra-sa (phía Đông của Biển Hồ Ga-li-lê) và chữa trị người bị thần ô uế ám. Anh này thường ở vùng mồ mả, núi đồi và không ai có thể kiểm soát được: Anh bẻ gãy gông cùm, xiềng xích, tru tréo, lấy đá đập vào mình. Khi gặp Đức Giê-su, anh ta hô lớn: “Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!” (Mc 5,7). Đức Giê-su bảo: “Thần ô uế kia, xuất khỏi người này!” (Mc 5,8). Khi dân trong vùng kéo tới, thì thấy người bị thần ô uế ám đã được giải thoát, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo. Anh ta xin Đức Giê-su cho phép anh ta theo Người nhưng Người đáp: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào” (Mc 5,19). Anh ta đã nghe lời Đức Giê-su và đi khắp miền Thập Tỉnh loan báo những điều kỳ diệu Đức Giê-su đã làm cho anh và mọi người đều ngạc nhiên về sự kiện này (Mc 5,20).

Thánh Mát-thêu trình thuật việc Đức Giê-su chữa đầy tớ của viên đại đội trưởng (dân ngoại). Khi gặp Đức Giê-su, người này nói: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: ‘Đi!’, là nó đi, bảo người kia: ‘Đến!’, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: ‘Làm cái này!’, là nó làm” (Mt 8,8-9). Đức Giê-su nói với những người xung quanh: “Tôi bảo thật các ông: Tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế” (Mt 8,10). Người cũng nói với viên đại đội trưởng: “Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy! Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13). Tương tự như vậy, trình thuật Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cho chúng ta biết Đức Giê-su chữa con gái người đàn bà Ca-na-an. Mặc dù bà không phải là người Do-thái nhưng trước đức tin chân thành của bà, Đức Giê-su đã cho con bà lành bệnh. Khi Đức Giê-su bảo rằng Người được sai đến với những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi thì bà vẫn khấn xin Người cho con gái bà khỏi bệnh. Sau đó, Đức Giê-su ca ngợi bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15,28). Cuối cùng, con gái bà được khỏi bệnh. Lời nói và việc làm của Đức Giê-su gia tăng đức tin và lòng yêu mến của người đàn bà Ca-na-an. Chắc rằng với biến cố con bà được khỏi bệnh, đức tin của bà được củng cố và bà trở thành chứng nhân thực thụ về Đức Giê-su và Tin Mừng của Người.

Đối với thánh Gio-an Tông Đồ, khi con người gặp gỡ Đức Giê-su cũng là khi con người gặp gỡ Thiên Chúa bởi vì sự hiện diện của Đức Giê-su là sự hiện diện của Thiên Chúa (Ga 8,58; Ga 10,10; Ga 14,9). Chẳng hạn, trong câu chuyện Đức Giê-su chữa con của viên sĩ quan cận vệ của nhà vua, ông ta khẩn nài Đức Giê-su: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!” (Ga 4,49). Đức Giê-su bảo ông ta về, con ông sẽ sống. Trên đường trở về, gia nhân báo cho ông biết con ông đã hồi phục. Sau đó, ông và cả nhà đều tin Đức Giê-su (Ga 4,50-53). Chắc rằng, trước khi nghe về Đức Giê-su, đức tin của viên sĩ quan vào Đức Giê-su chưa được mạnh mẽ. Tuy nhiên, với việc Đức Giê-su làm cho con ông hồi phục mà không hề có tác động trực tiếp nào thì đức tin của ông cũng như những người trong gia đình được củng cố. Tương tự như vậy, khi đối diện với một người đau ốm đã ba mươi tám năm bên hồ nước tại Bết-da-tha, Đức Giê-su nói: “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi” (Ga 5,8). Anh ta đã cảm nhận được năng lực nơi bản thân khi tin vào Đức Giê-su: Anh ta đã đứng dậy vác chõng và đi như bao người bình thường khác. Anh ta không chỉ đứng dậy về mặt thể lý mà còn đứng dậy về mặt luân lý bởi vì Đức Giê-su đã chữa lành tất cả như Người nói: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (Ga 5,14). Điều này giúp chúng ta xác tín rằng bệnh tật hay bất cứ hình thức đau khổ nào khác trong thế giới thụ tạo là do tội lỗi. Như vậy, qua việc cho người đau ốm được khỏi bệnh, Đức Giê-su mời gọi mọi người hãy để ý những bệnh tật luân lý, bệnh tật của tâm hồn mình. Trong khi người bệnh nhận ra quyền năng Đức Giê-su thì nhiều người Do-thái khác không nhận ra điều đó. Họ tìm cách bắt bớ Đức Giê-su bởi vì Người chữa bệnh trong ngày sa-bát.

Khi con người tin vào Đức Giê-su cách chân thành cũng là khi con người có được sự sống đời đời. Đức Giê-su cho mọi người biết điều này khi nói: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3,36); “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40); “Tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời” (Ga 6,47). Con người không chỉ ‘có đức tin’ (having the faith) mà còn ‘sống đức tin’ (living the faith) nữa. Sống theo đức tin được diễn tả qua việc lắng nghe và loan báo đức tin cho anh chị em mình. Đặc biệt, trên hết mọi sự, con người được mời gọi ‘làm chứng’ cho đức tin bằng chính cuộc sống thấm đượm những giá trị của đức tin mà mình lãnh nhận, thực hành và chuyển tải.

Là Thiên Chúa nhưng trong thân phận con người, Đức Giê-su luôn cầu nguyện, đặc biệt, lời cầu nguyện dài nhất của Đức Giê-su trong Kinh Thánh là lời cầu nguyện trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn. Lời cầu nguyện này là ‘khuôn mẫu’ cho mọi lời cầu nguyện của con người. Lời cầu nguyện của Đức Giê-su hướng về Chúa Cha. Chẳng hạn, Người thân thưa cùng Chúa Cha: “Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con” (Ga 17,7-8). Do đó, mọi người được mời gọi cầu nguyện với Đức Giê-su, để nhờ Người được hiệp nhất nên một với Chúa Cha, với anh chị em và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Đức Giê-su không chỉ cầu nguyện cho các môn đệ trực tiếp của Người mà còn cầu nguyện cho những ai nhờ các môn đệ mà tin vào Người. Người thưa cùng Chúa Cha: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,20-21).

Đức Giê-su phải đối diện với muôn đau khổ và thử thách trong hành trình trần thế, đặc biệt, trong ba năm loan báo Tin Mừng. Buổi đầu của sứ mệnh công khai, sau khi chịu phép rửa, Người đã phải đối diện với nhiều cám dỗ, đặc biệt là ba cơn cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13). Người gặp nhiều trắc trở, khó khăn đối với những người Do-thái, nhất là những người lãnh đạo, các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Người phải đối diện với xã hội dân sự dưới ách nô lệ của đế chế Rô-ma. Người chứng kiến sự cứng lòng của dân Do-thái và sự thiếu hiểu biết của các môn đệ. Đặc biệt, trong cuộc khổ nạn, Người đối diện với tình trạng ‘dường như bị Thiên Chúa quên lãng’, đến nỗi Người phải kêu lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” (Mt 26,38); “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con” (Mt 26,39) hay: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Nói cách khác, Đức Giê-su phải đối diện với muôn hình thức đêm tối từ lúc chào đời đến khi kết thúc hành trình trần thế: Người được sinh ra trong đêm tối, trốn sang Ai-cập trong đêm tối, trăn trở trước khi bước vào cuộc khổ nạn tại vườn Ghết-sê-ma-ni trong đêm tối và chịu mai táng trong mộ tối. Tuy nhiên, trong mọi sự, Đức Giê-su luôn vâng phục, trung tín và thực thi thánh ý Thiên Chúa.

Sau khi phục sinh, Đức Giê-su tiếp tục củng cố đức tin cho các môn đệ. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Em-mau giúp chúng ta hiểu rõ hơn về điều này. Quả thực, khi chứng kiến Đức Giê-su chịu đau khổ, chịu chết và chôn trong mộ, hai môn đệ đã thất vọng trở về cố hương bởi vì những gì họ hy vọng nơi Người đã tan biến. Đức tin của họ vào Đức Giê-su trở nên vô nghĩa bởi vì Người đã chết như bao người khác. Có lẽ điều còn đọng lại trong trái tim họ là Người hiền lành, khiêm nhường, độ lượng. Kỳ diệu thay, Đức Giê-su phục sinh đã hiện ra đàm đạo với họ để chia sẻ và giải thích Kinh Thánh. “Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! (Lc 24,25). Họ đã mời người khách bộ hành ở lại nhà mình. Trong bữa ăn tối, Đức Giê-su đã ‘cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ’ (Lc 24,30). Chứng kiến cử chỉ Đức Giê-su trong lúc bẻ bánh, mắt họ mở ra và nhận ra Người. Tuy nhiên, sau đó, Người biến mất. Nhớ lại cách thức người khách bộ hành giải thích Kinh Thánh cũng như cử chỉ Người làm trước bữa ăn, họ tin tưởng rằng Người đã phục sinh. Từ đó, họ nhanh chân trở về Giê-ru-sa-lem báo tin cho các môn đệ và chia sẻ niềm vui với các ngài, đồng thời, họ cùng nhau ra đi loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại.

Biến Cố Phục Sinh là biến cố quan trọng nhất trong hành trình trần thế của Đức Giê-su. Bởi vì, với Biến Cố này, Đức Giê-su đã bắc cho gia đình nhân loại ‘chiếc cầu’ qua vực thẳm tội lỗi và sự chết. Với việc Đức Giê-su phục sinh, tội lỗi bị đánh bại và sự chết không có quyền gì trên Người nữa; Người đã chiến thắng sự chết và mở đường cho những ai trung tín với Người vào chung hưởng sự sống vĩnh cửu. Thánh Phao-lô viết: “Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1 Cr 15,25-26). Đồng thời, thánh nhân đặt câu hỏi và đưa ra câu trả lời: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (1 Cr 15,55-57). Biến Cố Phục Sinh là cao điểm của chương trình Thiên Chúa đối với con người và vạn vật. Quả thực, Đức Giê-su chịu đau khổ và chịu chết là điều dễ hiểu hơn đối với mọi người, trong khi đó, Đức Giê-su phục sinh lại là điều khó hiểu bởi vì trong gia đình nhân loại chưa ai có kinh nghiệm đó. Biến cố Đức Giê-su phục sinh khai mở chương mới đối với mọi người trong gia đình nhân loại bởi vì mọi người được mời gọi tin tưởng và kết hiệp mật thiết với Người trong hành trình trần thế hầu được phục sinh vinh hiển theo khuôn mẫu của Người.

Biến cố Đức Giê-su lên trời góp phần củng cố đức tin cho các môn đệ. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết ‘lên trời’ không có nghĩa rằng Đức Giê-su tới một nơi nào đó trong không gian nhưng có nghĩa rằng Người liên kết với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần luôn mãi trong ‘môi trường Thiên Chúa’, môi trường vĩnh cửu. Mặc khải Ki-tô Giáo cũng cho chúng ta nhận thức rằng khi xuống thế làm Người, Đức Giê-su không rời xa Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; tương tự như vậy, khi lên trời, Người cũng không xa rời những ai tin tưởng và kết hiệp mật thiết với Người. Quả thật trong hành trình loan báo Tin Mừng Đức Giê-su cho mọi người biết rằng Người và Chúa Cha là một (Ga 10,30). Người ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Người (Ga 17,20-21). Trong Bữa Ăn Cuối Cùng, trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng Người sẽ không để họ mồ côi (Ga 14,18-20). Trước khi về trời, Người cho các môn đệ biết rằng Người ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Đặc biệt, trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su luôn hiện diện và hoạt động cùng với các môn đệ hầu củng cố đức tin cho các ngài cũng như những ai nhờ các ngài mà tin vào Người.

2. Đức Giê-su củng cố đức tin của các môn đệ

Trình thuật Tin Mừng theo thánh Lu-ca cho chúng ta biết rằng khi thuyền chở Đức Giê-su và các môn đệ lênh đênh trên Biển Hồ Ga-li-lê thì một trận cuồng phong ập tới. Các môn đệ hoảng hốt đánh thức Đức Giê-su và nói với Người rằng tất cả sẽ chết mất! Người thức dậy và “ngăm đe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay” (Lc 8,24). Người nói với các môn đệ: “Đức tin anh em ở đâu? Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau: Vậy người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải tuân lệnh?” (Lc 8,25). Đồng hành cùng Đức Giê-su và chứng kiến nhiều việc kỳ diệu Người thực hiện nhưng các môn đệ vẫn luôn sợ hãi khi phải đối diện với những biến cố bất thường. Đức tin của họ vào Đức Giê-su còn mong manh, phai nhạt, yếu kém. Đó là lý do tại sao Người không ngừng giúp họ trưởng thành hơn trong đức tin để có thể thích nghi với những nghịch cảnh mới hầu cộng tác với Người trong việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa.

Thánh Lu-ca cũng trình thuật rằng, sau khi giảng dạy các môn đệ tránh xa những gì làm cớ cho người khác vấp phạm cũng như cách thức sửa lỗi anh em, các môn đệ nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con. Chúa đáp: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,5-6). Lời của Đức Giê-su về ‘lòng tin lớn bằng hạt cải’ có nghĩa gì vậy? Thưa, Đức Giê-su không nói đến đức tin về ‘số lượng’ hay ‘khối lượng’ (quantity) nhưng về ‘phẩm tính’ hay ‘chất lượng’ (quality). Người dùng hình ảnh hạt cải để nói về đức tin nhưng điều Người truyền đạt không phải là kích cỡ đức tin (size of faith) mà là lòng tin (heart of faith). Chúng ta cũng không thể lượng định để so sánh đức tin người này với người khác bởi vì đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban tặng với sự cộng tác chân thành của con người. Do đó, chúng ta có thể cảm nghiệm được ‘nồng độ đức tin’ của chúng ta qua mức độ thông hiệp của chúng ta với Thiên Chúa, với anh chị em và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo.

Các môn đệ Đức Giê-su theo Người trong khoảng thời gian khá dài nhưng đức tin của họ cũng dễ lung lay, sai lạc như nhiều người khác, nhất là khi phải đối diện với những bất an, đau khổ, cùng cực. Đó là lý do tại sao trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với Phê-rô, vị Tông Đồ Trưởng: “Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,31-32). Như vậy, Đức Giê-su cho Phê-rô biết rằng Người cầu nguyện cho ông có đức tin vững mạnh để ông vừa kiên vững với đức tin, vừa nâng đỡ đức tin của các anh em khác nữa. Lời nói và hành động của Đức Giê-su giúp chúng ta ý thức rằng đức tin vừa có tính cá vị, vừa có tính cộng đoàn, đồng thời, vừa có tính quy tụ, vừa có tính lan tỏa. Không chỉ Đức Giê-su nâng đỡ đức tin các môn đệ mà các môn đệ được mời gọi nâng đỡ đức tin cho nhau hầu mọi người được đứng vững trước những thử thách trong cuộc sống trên bình diện cá nhân cũng như các hình thức cộng đoàn mà họ hiện diện và hoạt động.

Trong Bữa Ăn Cuối Cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su an ủi các môn đệ, củng cố đức tin của họ, chẳng hạn, Người nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3). Người cũng cho họ biết rằng ai tin vào Người thì có thể làm những việc Người làm và còn làm những việc lớn lao hơn nữa (Ga 14,12); Người không để họ mồ côi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16). Đặc biệt, Người hứa gửi Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí sự thật từ nơi Chúa Cha đến để tiếp tục đồng hành với họ. Thần Khí sẽ củng cố đức tin của họ, dạy dỗ họ mọi điều và nhắc nhở họ về những điều Người đã cho họ biết (Ga 14,26; Ga 15,26).

Khi các môn đệ nói với Đức Giê-su: “Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến” (Ga 16,30). Đức Giê-su trả lời: “Bây giờ anh em tin à? Này đến giờ và giờ ấy đã đến rồi, anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (Ga 16,31-32). Khi các môn đệ cho rằng họ tin vào Người và sống chết với Người thì Người cho họ biết rằng đức tin của họ chưa đủ vững chắc để trung thành với Người đến cùng. Họ sẽ bỏ chạy tán loạn trong cuộc thương khó của Người vì sợ hãi hay sợ liên lụy. Người củng cố đức tin của họ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33). Như vậy, Đức Giê-su không bao giờ mất kiên nhẫn với các môn đệ, cho dù họ kém tin hay hiểu biết phiến diện về chương trình Thiên Chúa được Người thực hiện. Đức Giê-su hứa ban bình an cho họ, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng hầu giúp họ vượt qua những yếu đuối của bản thân trong hành trình theo Người (Ga 14,27).

 Sau khi phục sinh, Đức Giê-su còn ở lại với các môn đệ khoảng 40 ngày. Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết Đức Giê-su phục sinh hiện ra với Kê-pha, với nhóm Mười Hai, với hơn năm trăm anh em một lượt, với Gia-cô-bê, với tất cả các Tông Đồ và với chính Phao-lô (1 Cr 15,6-8). Câu hỏi đặt ra là: ‘Tại sao Đức Giê-su phục sinh ở lại với các môn đệ?’ Thưa, tại vì Người muốn củng cố đức tin của họ và đồng hành cùng họ trong việc loan báo Tin Mừng. Trình thuật Tin Mừng theo thánh Mác-cô cũng cho chúng ta biết Đức Giê-su phục sinh khiển trách các môn đệ vì họ chậm tin: “Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14). Trình thuật Tin Mừng theo thánh Lu-ca cũng cho chúng ta biết tương tự: “Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24,41). Họ đưa cho Người khúc cá nướng và Người ăn trước mặt họ (Lc 24,42-43).

Khi đức tin của các môn đệ Đức Giê-su ngày càng được củng cố cũng là khi đức tin trở thành nguồn lực hữu hiệu cho phép các ngài thực thi những điều cao trọng nhân danh Người. Chẳng hạn, các môn đệ nguyên là những người ‘thấp bé nhẹ cân’, rụt rè nhút nhát, yếu đuối mọn hèn trong xã hội Do-thái nhưng với đức tin được củng cố, họ trở nên những người can trường trong việc loan báo Tin Mừng và minh chứng cho Tin Mừng bằng cuộc đời đượm tình bác ái yêu thương cũng như luôn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho vĩ nghiệp mà Đức Giê-su đã thực hiện. Với tâm trí không ngừng chiêm ngắm hành trình trần thế của Đức Giê-su, nhất là Biến Cố Vượt Qua của Người, cùng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, họ đã trở thành những môn đệ và tông đồ trung tín trong việc diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su giữa dòng đời. Như vậy, đức tin của các môn đệ mong manh nhưng với Đức Giê-su và trong Chúa Thánh Thần, đức tin đó trở nên mạnh mẽ, năng động và cho phép họ cộng tác với Đức Giê-su, với Chúa Thánh Thần để làm cho ‘danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời’.

IV. ĐỨC TIN TRONG ĐỜI SỐNG CÁC KI-TÔ HỮU

1. Đức tin được trao ban và củng cố

Ki-tô hữu là người được ‘sinh lại’ trong đức tin nhờ Bí Tích Rửa Tội mà Đức Giê-su loan báo và minh chứng trong hành trình trần thế của Người. Trong cuộc nói chuyện với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su bảo ông: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí” (Ga 3,5-6). Trước khi về trời, Đức Giê-su căn dặn các môn đệ thực thi sứ mệnh của Người là ‘làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28,19). Các môn đệ đã trung tín thực thi giáo huấn của Người. Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ viết: “Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin” (Cv 6,7). Khi Phao-lô và Xi-la được giải thoát khỏi tù ngục cách lạ lùng, viên cai ngục hỏi các ngài: “Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu độ? Hai ông đáp: Hãy tin vào Chúa Giê-su, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ” (Cv 16,30-31). Thánh Phao-lô viết thư cho người môn đệ trẻ Ti-mô-thê: “Gửi anh Ti-mô-thê, người con tôi đã sinh ra trong đức tin. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, ban cho anh ân sủng, lòng thương xót và sự bình an” (1 Tm 1,2). Ngài cũng viết cho người môn đệ trẻ Ti-tô: “Tôi gửi lời thăm anh Ti-tô, người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung” (Tt 1,4).

Đức tin của các Ki-tô hữu trở thành hiện thực khi họ nhận ra sự cần thiết phải gắn bó với Đức Giê-su để luôn hoán cải và liên đới với anh chị em trong cộng đoàn đức tin cũng như sống tình bác ái với mọi người. Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Biến Cố ‘một lần cho tất cả’ nhưng đức tin của các Ki-tô hữu không phải ‘một lần cho tất cả’. Đức tin đó cần luôn được tái xác nhận, trình bày và áp dụng trong đời sống. Nói cách khác, đức tin của các Ki-tô hữu cần phải được chăm sóc, nuôi dưỡng, ‘nắng che gió chống’, để ngày càng được lớn lên, bằng không đức tin đó sẽ xuống cấp, mai một, lụi tàn. Giữa lòng thế giới, các Ki-tô hữu luôn đối diện với muôn vàn thử thách làm cho đức tin ‘dễ bị lay chuyển’. Tuy nhiên, thử thách cũng là dịp làm cho đức tin của các Ki-tô hữu ngày càng trưởng thành hơn như thánh Gia-cô-bê viết: “Đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,3-4). Do đó, các Ki-tô hữu được mời gọi không ngừng hướng về Đức Giê-su để nhờ Người, với Người và trong Người, đức tin của mình ngày càng được kiên vững và trổ sinh hoa thơm trái ngọt.

Câu hỏi đặt ra là tại sao các Ki-tô hữu lại cần Đức Giê-su củng cố đức tin? Thưa, tại vì ma quỷ, thế gian, xác thịt và nhiều hình thức cám dỗ khác luôn ‘tìm mồi cắn xé’ làm cho tâm hồn các Ki-tô hữu xao xuyến, lung lạc (1 Pr 5,8). Giữa biển đời đầy phong ba bão táp, nếu con người không được Đức Giê-su nâng đỡ phù trì thì không thể đứng vững được. Đó là lý do tại sao Đức Giê-su đặt câu hỏi: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Đặc biệt, trong thế giới hôm nay, đức tin của các Ki-tô hữu phải đối diện với nhiều hình thức bóng tối, chẳng hạn như bóng tối của chủ nghĩa tiêu thụ (consumerism), chủ nghĩa tương đối (relativism), chủ nghĩa duy lý (rationalism). Quả thực, tự thân, con người khó có thể thực thi giáo huấn của Đức Giê-su và sống theo thánh ý Thiên Chúa cách trung tín.

Dưới nhãn quan của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Dt 12,2). Đức Giê-su, Đấng khai mở (Ἀρχηγός/ Pioneer) và Đấng kiện toàn (Τελειωτής/ Perfecter) lòng tin hay đức tin, nghĩa là Người khơi dậy đức tin chân chính trong tâm hồn con người và đưa đức tin đó tới mức vẹn toàn khi con người được kết hiệp với Thiên Chúa cách viên mãn. Lời của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái vọng lại lời của tác giả sách Khải Huyền về Đấng là An-pha (Α/ Ἄλφα) và Ô-mê-ga (Ω/ ὦμεγα) là Khởi Nguyên (Ἀρχὴ) và Tận Cùng (Τέλος, Kh 21,6). Tương tự như vậy, lời của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái vọng lại lời của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê rằng Đức Giê-su vừa là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo (Πρωτότοκος πάσης κτίσεως, Cl 1,15), vừa là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết sống lại (Πρωτότοκος ἐκ τῶν νεκρῶν, Cl 1,18). Quả thực, Đức Giê-su là Đấng khai mở đức tin cho con người để con người có thể tiến về nơi cực thánh của Thiên Chúa như tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Thưa anh em, nhờ máu Đức Giê-su đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh. Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua bức màn, tức là chính thân xác của Người” (Dt 10,19-20). Đồng thời, Đức Giê-su cũng là Đấng kiện toàn đức tin của con người, nghĩa là cho phép con người chiêm ngưỡng Thiên Chúa, Đấng mà con người hằng khao khát mong mỏi bao lâu còn rong ruổi giữa trần thế. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái khuyên dạy rằng nhờ các chứng nhân đức tin: “Chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta” (Dt 12,1).

Đức Giê-su luôn mời gọi các Ki-tô hữu hãy noi gương Người mà củng cố đức tin cho nhau. Trong Giáo Hội sơ khai, thánh Phao-lô và thánh Ba-na-ba vừa loan báo Tin Mừng, vừa củng cố đức tin cho những người mới nhập Đạo: “Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22). Thánh Phao-lô chỉ dạy các Ki-tô hữu: “Bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình” (Rm 15,1). Thánh nhân chia sẻ với các tín hữu Cô-lô-xê: “Tuy xa cách về thể xác, nhưng tôi vẫn ở với anh em về tinh thần, và vui mừng thấy anh em giữ hàng ngũ và vững tin vào Đức Ki-tô” (Cl 2,5). Trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân viết: “Chúng tôi đã phái anh Ti-mô-thê, người anh em của chúng tôi và cộng sự viên của Thiên Chúa trong việc loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô; anh đến để làm cho anh em được vững mạnh, và khích lệ đức tin của anh em” (1 Tx 3,2).

Đức tin là ánh sáng soi đường cho con người. Ánh sáng đó có thể lớn lên theo năm tháng và trở thành ngọn lửa bừng cháy luôn mãi. Tuy nhiên, ánh sáng đó cũng có thể tàn lụi khi phải đối diện với muôn hình thức bóng tối của thế gian. Chính ánh sáng đức tin củng cố đời sống con người và làm cho đời sống con người ngày càng được phong phú hơn. Tuy nhiên, khi ánh sáng đức tin tàn lụi cũng là khi đời sống con người phải đối diện với những khó khăn, chán chường, không lối thoát. Trong Thông Điệp đầu tiên của mình mang tên là ‘Ánh Sáng Đức Tin’ (Lumen Fidei, 2013), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Đức tin không phải là ánh sáng xua tan bóng tối của chúng ta, nhưng là ngọn đèn dẫn bước chúng ta trong đêm và đủ cho cuộc hành trình” (Lumen Fidei 57). Điều này có nghĩa rằng chúng ta luôn phải đối diện với nhiều thách đố, nhiều khó khăn trong hành trình đức tin của mình: Những khó khăn nảy sinh trong đời sống cá nhân, trong các hình thức cộng đoàn hay nhiều hình thức khó khăn khác trong thế giới thụ tạo. Trong tác phẩm Pensées, Blaise Pascal (1623-1662) viết: “Trong đức tin, có đủ ánh sáng cho những ai muốn tin và có đủ bóng tối để làm mù mắt những ai không tin” hay: “Có đủ ánh sáng cho những ai mong muốn nhìn thấy và có đủ bóng tối cho những ai có khuynh hướng ngược lại.”

2. Đức tin và các nhân đức chính yếu

Đức tin, đức cậy và đức mến: Trong các thư của mình, thánh Phao-lô nhiều lần quảng diễn tương quan giữa đức tin, đức cậy (hy vọng) và đức mến (tình yêu), chẳng hạn như ngài viết cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8). Lịch sử Giáo Hội luôn đề cao tương quan của ba nhân đức đối thần này, chẳng hạn như Công Đồng Vatican II xác quyết: “Noi gương Công Ðồng Trentô và Vaticanô I, Công Ðồng này muốn trình bày giáo lý chân thực về mạc khải của Thiên Chúa và lưu truyền mạc khải ấy, để khi nghe công bố ơn cứu độ, toàn thể nhân loại tin theo, để nhờ tin mà hy vọng, và nhờ hy vọng mà yêu mến” (DV 1). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: “Đức tin mà không có đức cậy và đức mến, sẽ không kết hợp trọn vẹn người tín hữu với Đức Ki-tô và không làm cho họ trở nên chi thể sống động trong Thân Thể Người” (GLGHCG 1815). Cũng theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Cùng với ơn công chính hóa, Thiên Chúa ban cho chúng ta đức tin, cậy và mến, và ơn biết phục tùng thánh ý Chúa” (GLGHCG 1991). Đặc biệt, trong Thông Điệp ‘Ánh Sáng Đức Tin’, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đề cao sự liên kết hòa hợp giữa ba nhân đức trong cuộc lữ hành của các Ki-tô hữu hướng về cánh chung như sau: “Được đan kết cách tuyệt diệu, đức tin, đức cậy và đức mến là động lực của đời sống Ki-tô hữu hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa” (Lumen Fidei 7).

Đức tin và đức mến: Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng khi chúng ta tin tưởng vào ai thì yêu thương người đó. Đồng thời, đức tin càng năng động, mạnh mẽ bao nhiêu thì tình yêu càng chân thực, sắt son, vững bền bấy nhiêu. Quả thực, chúng ta không thể nói rằng chúng ta yêu mến Thiên Chúa khi chúng ta không đặt đức tin của chúng ta nơi Người. Thánh Phao-lô viết: “Quả thật, trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5,6). Đức tin của các Ki-tô hữu là đức tin vào tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giê-su, Đấng xuống thế làm Người, sống thân phận con người, giống con người mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết và phục sinh vì con người. Đặc biệt, Người ở cùng với mọi người trong gia đình nhân loại cho đến tận thế, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể. Chính tình yêu của Đức Giê-su đã làm cho đức tin của các môn đệ được vững mạnh. Trong thư gửi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô viết: “Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1 Tm 1,14). Ngài căn dặn Ti-mô-thê: “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy” (2 Tm 1,13).

Đức tin và đức cậy: Khi Đức Giê-su nâng đỡ đức tin của những ai theo Người cũng là khi họ được phù trì nâng đỡ. Nói cách khác, khi Đức Giê-su nâng đỡ đức tin các tín hữu cũng là khi Người gia tăng hy vọng và làm cho các tín hữu có thể vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Dưới nhãn quan của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, đức tin và hy vọng định nghĩa lẫn nhau hay hòa trộn trong nhau, đức tin và hy vọng có thể thay thế cho nhau (Spe Salvi 2). Do đó, ai hy vọng chân thành thì người đó cũng có đức tin tinh tuyền và ai có đức tin tinh tuyền thì người đó cũng hy vọng chân thành. Thánh Phao-lô khuyên dạy tín hữu Cô-lô-xê: ”Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin Mừng. Tin Mừng này đã được rao giảng cho khắp thiên hạ, và tôi, Phao-lô, tôi đã được trở nên người phục vụ Tin Mừng” (Cl 1,23). Ngài viết thư cho các tín hữu Rô-ma: “Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Rm 10,11). Thánh Phê-rô mời gọi các tín hữu: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3,15). Đặc biệt, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).

Đức tin và sự công chính: Đức tin và sự công chính liên hệ mật thiết với nhau, chẳng hạn, khi rao giảng cho người Do-thái, thánh Phao-lô nói: “Trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, thì nhờ Người [Đức Ki-tô], mọi kẻ tin đều được nên công chính” (Cv 13,38-39). Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1,17); “Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10); “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Gl 3,24). Đặc biệt, thánh Phao-lô khuyên dạy tín hữu Ê-phê-xô: “Hãy đứng vững: Lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa” (Ep 6,14-17). Nhờ tin vào Đức Giê-su, các tín hữu có thể sống công chính thánh thiện giữa thế giới đầy giông tố bão bùng. Nói cách khác, ai ở lại trong đức tin vào Đức Giê-su thì sống công chính nhờ luôn ý thức về sự quan phòng của Thiên Chúa và thực thi thánh ý Người như Đức Giê-su đã minh chứng và thực thi trong hành trình trần thế của Người.

Đức tin và sự vâng phục: Đức tin giúp con người vâng phục Thiên Chúa, nghĩa là con người biết nhìn nhận những yếu đuối bất toàn của mình và thực thi giáo huấn của Người. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: “Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa” (Rm 16,26). Khi con người vâng phục Thiên Chúa cũng là khi con người biết luôn ý thức về việc định hướng tư tưởng, lời nói và việc làm của mình theo thánh ý Người. Đặc biệt, khi con người vâng phục Thiên Chúa cũng là khi con người nhận ra lòng thương xót của Người đối với bản thân mình cũng như anh chị em đồng loại và muôn vật muôn loài. Viết thư cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô quả quyết: “Chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Ki-tô. Chúng tôi sẵn sàng sửa trị mọi kẻ bất tuân, một khi anh em đã hoàn toàn vâng phục” (2 Cr 10,4-6). Như vậy, đức tin tinh tuyền và vững mạnh giúp con người ngày càng biết phó thác hơn, tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa hơn và thực thi thánh ý Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn trong cuộc sống mình.

Đức tin và lý trí: Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Nhờ đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa; vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có” (Dt 11,3). Điều này có nghĩa rằng đức tin mở đường và cho phép con người lĩnh hội những điều mà với lý trí tự nhiên mình không thể tiếp cận hay vươn tới. Tuy nhiên, ‘cái biết’ nhờ đức tin phân biệt với ‘cái biết’ qua các hình thức trung gian khác, chẳng hạn như ‘cái biết’ nhờ giác quan, ‘cái biết’ nhờ loại suy, ‘cái biết’ nhờ các dấu chỉ. Hai não trạng khá phổ biến của con người trong lịch sử nhân loại về tương quan giữa đức tin và lý trí là ‘duy tín’ (fideism) và ‘duy lý’ (rationalism). Mặc khải Ki-tô Giáo không có chỗ cho những quan điểm ‘duy’ (-ism) như vậy. Đức tin và lý trí hay mặc khải của Thiên Chúa và trí khôn của con người không chống lại nhau nhưng hỗ trợ nhau và giúp con người nhận diện rõ hơn về các thực tại. Một trong những nhân vật đặc biệt giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về tương quan giữa đức tin và lý trí là thánh Au-gút-ti-nô (354-430). Tư tưởng của thánh nhân về tương quan này như sau: ‘Intellege ut credas, crede ut intellegas’, nghĩa là ‘hiểu để tin, tin để hiểu’ (St. Augustine: Sermo 43, 79: PL 38, 257-258. Cf. John Paul II, Redemptor Hominis 19). Còn thánh An-sen-mô (1033-1109) định nghĩa thần học như sau: Thần học là Đức tin tìm kiếm sự hiểu biết (fides quaerens intellectum – faith seeking understanding). Thánh nhân còn khẳng định: “Tôi không tìm hiểu biết để tin, nhưng tôi tin để hiểu biết. Tôi cũng tin rằng khi tôi không tin, tôi sẽ không hiểu biết” (St. Anselm, Proslogium, Chapter I). Đức tin giúp con người không chỉ ‘thông minh hơn’ mà còn ‘khôn ngoan hơn’ trong việc tiếp cận, đánh giá, lượng định các thực tại để có được cái nhìn đúng đắn hơn về thế giới quanh mình. Toát Yếu Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: “Dù đức tin vượt lên trên lý trí, nhưng không bao giờ có mâu thuẫn giữa đức tin và khoa học, vì cả hai đều có cùng một cội nguồn là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ban ánh sáng lý trí và đức tin cho con người” (TYGLGHCG 29). Mở đầu Thông Điệp ‘Đức Tin và Lý Trí’ (Fides et Ratio, 1998), thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết: “Đức tin và lý trí như đôi cánh nhờ đó tâm hồn con người vươn tới sự chiêm ngưỡng chân lý” (Fides et Ratio 1). Theo ngài, đức tin và lý trí tiếp cận thực tại theo những cách thức khác nhau hầu giúp con người có được cái nhìn và cảm thức đúng đắn hơn về các thực tại cũng như tương quan giữa chúng, đặc biệt, nhờ đức tin và lý trí, con người có thể chiêm ngưỡng Thiên Chúa là Chân Lý Tối Hậu cũng như Nguyên Nhân và Cứu Cánh của con người và muôn vật muôn loài.

3. Hoa trái của đức tin

Đức tin của các Ki-tô hữu là đức tin nhập thể (incarnational faith) đặt trên nền tảng Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại. Do đó, ‘đức tin có hình có dạng’ của các Ki-tô hữu cần được thể hiện trong mọi môi trường sống của con người và làm cho các môi trường đó được thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa mà Đức Giê-su diễn tả trong hành trình trần thế của Người. Cụ thể là Ki-tô hữu không chỉ quan tâm đến việc tuyên xưng đức tin (confession of faith) mà còn có bổn phận đối với đức tin (commitment of faith). Nói cách khác, đức tin cần phải đi đôi với việc làm, bằng không, đức tin đó vẫn luôn trừu tượng. Thánh Gia-cô-bê viết: “Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,26). Đức tin và việc làm ‘định nghĩa cho nhau’ và ‘giải thích cho nhau’. Thánh Phao-lô viết: “Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,10); “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1 Tm 5,8). Tương tự như vậy, trong thư gửi anh Gai-ô, thánh Gio-an viết: “Anh thân mến, anh hành động theo đức tin trong mọi việc anh làm cho các người anh em, dù họ là những người xa lạ” (3 Ga 1,5).

Như được đề cập ở trên, đức tin Ki-tô hữu là ‘đức tin vào’, nghĩa là dõi theo Đức Giê-su, hành động theo lời Đức Giê-su giữa những bấp bênh, biến đổi không ngừng của thế sự. Đức tin của các Ki-tô hữu luôn sống động bởi vì đức tin đó là động lực giúp con người hướng về Thiên Chúa để thiết lập tương quan mật thiết với Người, với anh chị em và với muôn vật muôn loài. Nhờ đức tin, con người ngày càng trưởng thành hơn trong hành trình bước theo chân Đức Giê-su để phục vụ anh chị em mình. Nghĩa là các Ki-tô hữu đến với anh chị em như Đức Giê-su đã đến, yêu anh chị em như Đức Giê-su và phục vụ anh chị em như Đức Giê-su đã phục vụ. Nói cách khác, nhờ đức tin, các Ki-tô hữu có thể thiết lập các tương quan lành mạnh và thực thi thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình.

Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng đức tin chân thành đem lại hiệu quả lớn lao là làm cho con người ‘trở thành người hơn’, nghĩa là làm cho phẩm giá con người ngày càng được tôn trọng và thăng tiến. Với đức tin, con người biết tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Con người có thể nhận diện rõ hơn sự quan phòng của Người đối với bản thân mình cũng như với anh chị em và muôn vật muôn loài. Sự trưởng thành trong đức tin dẫn tới sự trưởng thành các chiều kích khác của cuộc sống hầu làm cho con người được phát triển toàn diện. Đức tin chân thành giúp con người biết cộng tác với ơn thiêng Thiên Chúa ban tặng hầu làm cho tâm trí mình được trong sáng hơn để có thể nhận ra những dấu chỉ của Người, đọc được những dấu chỉ đó và thực thi theo những dấu chỉ đó cách trung tín nhất.

Đức tin cho phép con người biết chấp nhận, biết ôm lấy, biết cảm thông với những gì xem ra trái ngược, bất thường, vô lý. Đức tin giúp con người phát triển khả năng đón nhận sự đa dạng, khả năng đón nhận sự khác biệt hay khả năng đối diện với nghịch cảnh. Chẳng hạn, đức tin giúp con người không ngạc nhiên trước sự kiện lúa và cỏ lùng cùng tồn tại trong một thửa ruộng; người tốt và kẻ xấu cùng đi với nhau; người thánh thiện và kẻ bất lương cùng sống trong một cộng đoàn. Đức tin cho phép con người nhận thức rằng nơi thánh thiện nhất trong môi trường thế giới thụ tạo vẫn luôn có sự hiện diện của nhiều thế lực bóng tối. Đức tin giúp con người không ngạc nhiên khi trong các môn đệ Đức Giê-su lại có Giu-đa. Đức tin giúp con người hiểu rằng không ai thánh thiện đến nỗi không cần được biến đổi, cũng không ai tội lỗi đến mức nằm ngoài ‘biên giới’ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức tin giúp con người có tâm thức bao dung rằng ai cũng có khả năng biến đổi nếu họ biết cộng tác với Thiên Chúa và anh chị em mình cho một tương lai tốt đẹp hơn. Đức tin giúp con người có tầm nhìn vượt qua những sự vật, hiện tượng, biến cố xem như tất định, chóng qua, không lối thoát, chẳng hạn như nhận xét của tác giả sách Giảng Viên: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: Một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây… một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhảy… một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hòa” (Gv 3,1.2.4.8). Đức tin giúp con người ý thức, cảm nhận và thực thi theo kết luận cuối cùng của tác giả sách Giảng Viên: “Hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các mệnh lệnh Người truyền, đó là tất cả đạo làm người, vì Thiên Chúa sẽ đưa ra xét xử tất cả mọi hành vi, kể cả những điều tiềm ẩn, tốt cũng như xấu” (Gv 12,13-14).

Trong tác phẩm Tự Thuật, thánh Au-gút-ti-nô chia sẻ kinh nghiệm đức tin, kinh nghiệm hoán cải của ngài là nhờ đọc thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Đặc biệt, hai câu đánh động ngài nhất là: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13,13-14). Ngài kể rằng khi đọc xong hai câu này, ngài không đọc thêm nữa, bởi vì dường như có ánh sáng an toàn thấm nhập trái tim ngài, đồng thời, mọi nghi ngờ tan biến (St. Augustine, The Confessions, Book VIII,12,29). Đối với thánh nhân, nhờ Đức Giê-su, với Đức Giê-su và trong Đức Giê-su, con người vừa là thành phần của ‘thành đô Thiên Chúa’ (de civitate Dei/ the city of God) vừa là thành phần của ‘thành đô trần thế’ (de civitate terrena/ the earthly city). Thành đô Thiên Chúa thì vĩnh cửu, siêu việt, còn thành đô trần thế thì tạm thời, bất ổn. Con người được mời gọi sống trong thành đô trần thế như là sự chuẩn bị cho thành đô Thiên Chúa. Con người sống trong không gian, thời gian với lòng tin tưởng rằng mình sẽ được tham dự thành đô Thiên Chúa viên mãn với điều kiện là hiệp nhất nên một với Đức Giê-su và sống theo những giá trị của thành đô Thiên Chúa mà Đức Giê-su loan báo và minh chứng trong hành trình trần thế của Người. Dưới nhãn quan của Công Đồng Vatican II, nhất là ‘Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay’, nhờ Đức Giê-su, thành đô Thiên Chúa và thành đô trần thế liên hệ mật thiết với nhau bởi vì Đức Giê-su là Thiên Chúa nhưng đã trở nên người phàm, mang lấy những yếu tố trần thế, những yếu tố của thế giới thụ tạo. Nhờ đó, con người được cứu độ và vạn vật được biến đổi theo thánh ý Thiên Chúa (GS 58.82).

Đức tin của các Ki-tô hữu nảy sinh từ Biến Cố Đức Giê-su giữa gia đình nhân loại. Biến cố này vẫn tiếp tục hiện diện và hoạt động cho đến thời cánh chung khi Thiên Chúa quy tụ muôn vật muôn loài trong Đức Giê-su. Do đó, những ai nhìn nhận Đức Giê-su là Thầy và là Bạn của mình thì được mời gọi loan báo Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh làm cho thánh Phao-lô trở thành sứ giả của Người. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin” (Rm 1,16). Đặc biệt, thánh nhân đề cao sự cần thiết trong việc loan báo Tin Mừng cho mọi người: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10,14-15). Các Ki-tô hữu được mời gọi cộng tác với Đức Giê-su, cộng tác với ơn Thiên Chúa, hầu làm cho đức tin mà mình đón nhận được lan tỏa theo gương các chứng nhân Tin Mừng như lời thánh Phao-lô: “A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban” (1 Cr 3,5). Việc loan báo Tin Mừng không chỉ cho những người chưa lãnh nhận đức tin mà còn cho những người đã lãnh nhận đức tin nhưng lại chối bỏ đức tin, những người đã lãnh nhận đức tin nhưng đức tin sai lạc, những người đã lãnh nhận đức tin nhưng đức tin hời hợt, những người đã lãnh nhận đức tin nhưng thờ ơ lãnh đạm với đức tin của mình. 

KẾT LUẬN

Con người thật nhỏ bé giữa vũ trụ bao la, vô cùng vô tận. Những hiểu biết của con người về bản thân, về anh chị em, về muôn vật muôn loài thật hạn chế so với những gì chưa biết. Tận đáy lòng, không ai thỏa mãn với những gì trong không gian, thời gian; những gì chóng qua, tạm bợ. Con người biết rằng muôn vật muôn loài đều phải đối diện với cảnh hư nát, tàn lụi. Đặc biệt, con người biết rằng không ai trong gia đình nhân loại hay quyền lực nào trong vũ trụ có thể cứu mình khỏi chết. Những ưu tư về bản thân, về gia đình nhân loại, về các tương quan trong xã hội cũng như giữa vạn vật không ngừng nảy sinh trong tâm hồn con người. Đặc biệt, sự khao khát về chân, thiện, mỹ tuyệt đối không ngừng thôi thúc con người tìm kiếm câu trả lời. Đức tin cho phép con người tiếp cận những thực tại mà kinh nghiệm và trí khôn của mình không thể vươn tới. Đức tin cho phép con người kết nối đất với trời, hữu hình với vô hình, giới hạn với vô biên, thời gian với vĩnh cửu, sự chết với sự sống.

Đối với các Ki-tô hữu, đức tin là ân sủng của Thiên Chúa ban tặng cho con người và là ‘lời con người’ đáp lại ‘lời Thiên Chúa’. Nhờ đó, con người vâng phục Thiên Chúa và thực thi thánh ý Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình. Trọng tâm của đức tin Ki-tô Giáo đặt nền tảng trên Đức Giê-su, Con Yêu Dấu của Thiên Chúa. Nhờ Người và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa đã sáng tạo, cứu độ, thánh hóa con người cũng như muôn vật muôn loài. Đức Giê-su đã sống thân phận con người như chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Người đã loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, nâng đỡ những người đau thương, giải thoát những người bị giam cầm bởi các thế lực sự dữ. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, phục sinh và lên trời. Đồng thời, Người ở lại với mọi người trong gia đình nhân loại cho đến tận thế, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể để con người được tham dự sự sống đời đời ngay trên hành trình trần thế này. Đức tin Ki-tô Giáo mời gọi mọi người biết cộng tác với Thiên Chúa và với nhau trong việc hoán cải bản thân dựa trên những tiêu chuẩn và giá trị của Nước Thiên Chúa để được hiệp nhất nên một với Người trong hành trình tiến về Quê Hương vĩnh cửu.

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng Người là Đường (Ga 14,6). Những trình bày trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng Đường Đức Giê-su là Đường Củng Cố Đức Tin. Bởi vì, qua việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa và thực thi những phép lạ, chẳng hạn như chữa bệnh, trừ quỷ, hồi sinh kẻ chết hay tha tội, Đức Giê-su tỏ bày lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa đối với mọi người. Đồng thời, Người khơi dậy, củng cố đức tin và giúp mọi người có động lực hướng về những gì cao thượng, tốt đẹp, viên mãn trong khi phải đối diện với muôn hình thức bấp bênh, đau khổ, thách đố của cuộc sống thường ngày. Đường Củng Cố Đức Tin của Đức Giê-su vẫn luôn hiện diện và hoạt động giữa gia đình nhân loại cho đến tận thế qua Giáo Hội mà Người thiết lập. Nhờ ánh sáng đức tin, mọi người vững bước trong tình yêu và hy vọng vào tương lai xán lạn khi Thiên Chúa quy tụ muôn vật muôn loài trong Đức Giê-su, Con Yêu Dấu của Người. Hiệp lòng với các môn đệ Đức Giê-su trong hành trình theo Người loan báo Tin Mừng, chúng ta thân thưa với Người: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Nhờ đó, lời của Người đối với thánh Tô-ma trong Tin Mừng trở nên hiện thực nơi chúng ta: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*