Giải đáp phụng vụ: Linh mục cử hành lễ an táng cho người Tin lành được không?

 

Nguyễn Trọng Đa

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Một linh mục Công Giáo có thể cử hành lễ an táng cho một người Tin Lành tại một nơi như khuôn viên trường đại học được không? Theo Bộ Giáo luật, điều 1183.3, “người đã rửa tội và gia nhập vào một Giáo Hội hay Giáo Ðoàn ngoài Công Giáo, được an táng theo nghi lễ Giáo Hội” trong một số điều kiện nhất định. Liệu điều này có hàm ý rằng buổi lễ phải diễn ra trong một nhà thờ Công Giáo không? – F. D.,Montreal, Canada.

Đáp: Điều 1183.3 của Bộ Giáo luật (tương ứng với điều 876.1 của Bộ luật phương Đông và số 120 của Hướng dẫn Đại kết) nói như sau: 

“Tùy theo sự phán đoán khôn ngoan, Bản Quyền sở tại có thể cho những người đã rửa tội và gia nhập vào một Giáo Hội hay Giáo Ðoàn ngoài Công Giáo, được an táng theo nghi lễ Giáo Hội, trừ khi biết rõ ý muốn ngược lại của họ và miễn là không thể có một thừa tác viên riêng để cử hành” (Bản dịch Việt ngữ do các Linh Mục: Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện, Mai Ðức Vinh thực hiện).

Các chuyên viên giáo luật bình luận rằng sự cho phép có thể được ban, ngay cả khi sự hiệu lực của bí tích rửa tội bị nghi ngờ. Thừa tác viên không Công Giáo có thể là không sẵn sàng về mặt thể lý, vì không có vị nào trong khu vực ấy cả. Thừa tác viên này cũng có thể không sẵn sàng về mặt luân lý, chẳng hạn, nếu vị này chỉ là trên danh nghĩa một thành viên của một giáo phái nhưng không thực hành đức tin của mình, trong khi người bà con của ông là một người Công Giáo ngoan đạo. 

Tương tự như vậy, việc cho phép có thể được ban, nếu người không Công Giáo đã bày tỏ ước muốn trở lại đạo Công Giáo, ngay cả khi ước muốn này chưa được chính thức hóa bằng việc đăng ký vào một chương trình học trở lại đạo.

Hướng dẫn Đại kết đưa thêm một điều kiện: 

“Điều 120. Trong sự phán đoán thận trọng của Đấng Bản Quyền địa phương, các nghi thức an táng của Giáo Hội Công Giáo có thể được ban cho các thành viên của một Giáo Hội không Công Giáo hay Cộng đồng Giáo Hội, trừ khi biết rõ ý muốn ngược lại của họ và không thể có một thừa tác viên riêng để cử hành, và nếu các điều khoản chung của Bộ Giáo Luật không cấm đoán việc ấy”.

Các “điều khoản chung” của Giáo luật được nhắc đến là các điều cấm một tang lễ Công Giáo. Đó là: 

“Ðiều 1184: § 1 Nếu họ không tỏ một dấu hiệu thống hối nào trước khi chết, thì phải từ chối an táng theo nghi lễ Giáo Hội:

1. những người bội giáo, lạc giáo và ly giáo cách tỏ tường;

2. những người chọn hỏa táng thi hài của mình vì những lý do nghịch với Ðức Tin Kitô Giáo;

3. những tội nhân trống trải khác, mà việc an táng theo nghi thức Giáo Hội chắc chắn sẽ sinh gương xấu công khai cho các tín hữu.

§ 2 Khi gặp trường hợp hoài nghi, thì phải hỏi ý kiến Bản Quyền sở tại và làm theo sự phán quyết của Ngài.

Ðiều 1185: Người nào không được mai táng theo nghi thức Giáo Hội, thì cũng không được làm lễ quy lăng cho họ”. (Bản dịch như trên). 

Một khi tất cả các điều kiện này được đáp ứng, thì các vấn đề khác, chẳng hạn như các nghi thức được sử dụng và địa điểm cử hành lễ an táng, được dành cho “sự phán đoán khôn ngoan” của Giám mục địa phương. 

Bởi vì lễ tang luôn đòi hỏi sự nhạy cảm mục vụ lớn, và mỗi tình huống có một sự đặc biệt nào đó, nên Giám mục cùng với các linh mục hữu quan là những người cần quyết định các lựa chọn phù hợp tốt nhất, vốn tôn trọng ý muốn của người quá cố, gia đình và tất cả các người khác có liên quan. 

Vì lý do này, Giáo Hội đã không cố gắng đưa ra các hướng dẫn chi tiết cho các trường hợp như thế. 

Một trong ít điều kiện nghi thức là, nếu một Thánh Lễ an táng được cử hành, tên người quá cố không Công Giáo không được đọc lên trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể. Điều này là khá hợp lý, vì một sự đọc tên như vậy có thể hàm ý rằng người quá cố đã sống hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo. (Zenit.org 16-9-2014)

 

Nguồn: Vietcatholic News

 

HỒI GIÁO, BẠO ĐỘNG, VÀ BẢN TÍNH CỦA THIÊN CHÚA

Mặc dù chủ đề bạo động trong Hồi Giáo là vấn đề gây nhiều tranh cãi, Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã đặt nó ở trung tâm của cách cư xử đối với việc nhận biết Thiên Chúa trong bài giảng của ngài tại Regensburg, ngày 12.9.2006, về sự hiểu lầm và trình bày sai. Nói đơn giản, quan niệm sai về bản tính Thiên Chúa có thể dẫn tới hành động sai trái về tôn giáo, như khủng bố và giết người dã man, ngược với bản tính và Ý Chúa. Điển hình là vụ khủng bố tòa tháp đôi WTC ( World Trade Center – Trung tâm Thương Mại Thế Giới ) ngày 11.9.2001, hoặc nhóm quá khích Hồi Giáo ISIS ( Islamic State of Iraq and Syria ) đã sát hại các Kitô hữu ở Iraq và các nước khác. Người Công Giáo vẫn luôn cố gắng tìm cách đối thoại hòa bình và thân thiện với Hồi Giáo.

Các Kitô hữu và các tín đồ Hồi Giáo có tôn thờ cùng một Thiên Chúa ? Một số các nhà biện giải tôn giáo ( apologists ) là Kitô hữu và các bloggers cũng đã nêu lên vấn đề này. Tiểu luận này tóm lược và bình luận về sự tranh luận này. Hiện nay có một số ý nghĩ cho rằng vấn đề này đòi hỏi sự trợ giúp của triết học: Chúng ta biết đúng về Thiên Chúa bằng cách nào, hoặc nói chính xác hơn, chúng ta hiểu sai về Thiên Chúa như thế nào ?

CÁC CUỘC TRANH LUẬN

Điểm đầu tiên diễn tả vấn đề này là bài viết của Tim Staples: “Do Muslims Worship the Same God Catholics Do ?” ( Người Hồi Giáo có Tôn thờ cùng Một Thiên Chúa như Người Công Giáo ? ). Staples cố gắng chú ý sự cân bằng đúng đắn về những gì Hồi Giáo hiểu đúng và sai. Ông trích dẫn hai câu quan trọng về chủ đề này, Giáo Lý Công Giáo ( GLCG ) và Tuyên ngôn Nostra Aetate ( Thời Đại Chúng ta, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, 28.10.1965, Tuyên ngôn về mối quan hệ giữa Giáo Hội và các Tôn giáo ngoài Kitô Giáo ), có vẻ có sự tranh luận: “Giáo Hội vẫn kính trọng người Hồi Giáo. Họ cũng tôn thờ một Thiên Chúa, sống và tồn tại trong Ngài; nhân từ và toàn năng, Đấng tạo dựng trời đất và nói với con người”. Staples biết rằng các tín đồ Hồi Giáo hiểu sai nhiều về Thiên Chúa và ý Ngài dành cho con người, do đó, họ đưa ra sự thỏa hiệp về Hồi Giáo.

Như vậy, người Công Giáo chúng ta phải cẩn thận phân biệt giữa việc người Hồi Giáo tin vào một Thiên Chúa, “sống và tồn tại trong Ngài; nhân từ và toàn năng, Đấng tạo dựng trời đất” và việc họ hiểu sai – rất sai – khi nói rằng Thiên Chúa mặc khải chính Ngài trong Tân ước và các điều Ngài truyền dạy dân Ngài.

Thiết tưởng rằng Staples rất đúng về cách lý giải này. Nhưng vấn đề dưới đây còn xa hơn điểm thứ nhất, đặt vấn đề là nếu chúng ta có nên đồng ý với Hồi Giáo hay không. Điểm thứ hai là bài viết của Mark Shea: “When Better Than the 4th of July to Talk About Religious Liberty” ( Đàm phán về Tự do Tôn giáo vào lúc nào tốt hơn ngày 4 tháng Bảy ), trong đó ông nói về điểm tương đồng trong niềm tin Kitô Giáo và Hồi Giáo.

Một sự dối trá nguy hiểm là vụ tấn công khủng bố WTC vào ngày 11.9.2001, nhiều người Công Giáo vẫn nhớ và cho rằng người Hồi Giáo “tôn thờ một Thiên Chúa khác”, mặc dù giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo nói rõ:

841. QUAN HỆ CỦA GIÁO HỘI VỚI HỒI GIÁO: “Kế hoạch cứu độ cũng bao gồm những người nhận biết Đấng Tạo Hóa, trong vị trí đầu tiên giữa họ là người Hồi Giáo; những người này tuyên xưng Đức Tin của Ápraham, và cùng với chúng ta, họ tôn thờ cùng một Thiên Chúa, Đấng nhân từ, Đấng phán xét nhân loại vào ngày tận thế” [ GLCG, trích dẫn Thông điệp Lumen Gentium, số 16 ].

Nhiều người Công Giáo phản động ( Reactionary Catholics ) phản đối giáo huấn này của Giáo Hội và cố gắng giả vờ rằng Thiên Chúa và Đấng Allah là “hai Chúa khác nhau”. Vấn đề này gấp đôi. Thứ nhất, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, không có hai. Thứ hai… Allah chỉ là từ ngữ Ả Rập để chỉ Thiên Chúa – như chữ “Dieu” của người Pháp, chữ “Gott” của người Đức, và chữ “Deus” của người Latin.

Một số người cho rằng vì người Hồi Giáo không tin Tam Vị Nhất Thể ( Chúa Ba Ngôi, non-Trinitarian ), họ không tôn thờ cùng một Thiên Chúa như các Kitô hữu. Vấn đề là người Do Thái cũng không tin Chúa Giêsu có thần tính. Đó là vì các Kitô hữu như vậy nhận thấy rằng bạn có thể tôn thờ Thiên Chúa trong khi chưa hiểu về Ngài – nếu bạn là người Do Thái. Nhưng vì sự giận dữ về ngày 11 tháng 9 và các trọng tội khác của Hồi Giáo, họ từ chối người Hồi Giáo – và nói như thể có nhiều Chúa chứ không chỉ có một Chúa được hiểu theo nhiều cách hiểu.

Tác giả Shea đã chống lại sự phản động là muốn loại bỏ mối quan hệ với Hồi Giáo trong niềm tin vào Đấng Allah đối với Thiên Chúa thật. Cũng có vấn đề với cách lý luận của tác giả.

Thứ nhất, nếu bạn tôn thờ cùng một Thiên Chúa mà lại hiểu sai bản tính của Thiên Chúa, như vậy Thiên Chúa có thực sự được tôn thờ ? Chỉ có một Thiên Chúa không có nghĩa là một số người tôn thờ vị Chúa khác theo hư cấu mà họ tạo ra và gọi là “Thiên Chúa” ( chẳng hạn giáo phái Mormon, tên chính thức là “Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô của các Thánh ngày sau hết”, đạo này do Joseph Smith lập ra năm 1829 – phát âm theo Việt ngữ là Mặc Môn ). Thứ hai, chữ “Allah” có thể được dùng để chỉ “Thiên Chúa” trong tiếng Ả Rập, không có nghĩa là những người dùng từ này có cùng một ý nghĩa. Có thể có, nhưng từ ngữ phổ thông không bảo đảm điều đó. Thứ ba, có sự khác biệt giữa việc người Do Thái duy trì sự mặc khải thật và giao ước của Thiên Chúa ưu tiên giới thiệu tín lý về Chúa Ba Ngôi và việc hình thành Hồi Giáo sau cuộc mặc khải này khi minh nhiên từ chối tín lý này.

Phải nói rằng người Do Thái tin vào Thiên Chúa thật vì chúng ta biết rằng Cựu Ước là sự mặc khải thật về Thiên Chúa. Cũng có thể nói rằng tin vào Chúa Ba Ngôi là mặc nhiên có trong Cựu ước và không minh nhiên từ chối tín lý này, người ta có thể mặc nhiên giữ ( như Thánh Thomas Aquinas tranh luận về các Giáo Phụ trước khi có sự Nhập Thể ). Điều này hơi khác với Hồi Giáo, như Mohammed biết giáo huấn về Chúa Ba Ngôi và minh nhiên từ chối, như chúng ta thấy ghi trong Kinh Koran: “Vậy hãy tin vào Thiên Chúa và các giáo huấn của Ngài, và đừng nói về Tam Vị Nhất Thể” ( sura 4 [An-Nisa], ayat 17 ). Từ chối sự mặc khải của Thiên Chúa về chính Ngài là tin vào một Thiên Chúa khác, một Thiên Chúa không là Tam Vị Nhất Thể.

Điểm thứ ba là tiến sĩ Taylor Marshall, người đưa Thánh Thomas Aquinas vào cuộc tranh luận. Sau khi đưa ra giáo huấn của Vatican II, Marshall đề cập giáo huấn của Thánh Thomas về “Preambula Fidei” ( Các Khai Đoạn Đức Tin ), xác định rằng người Hồi Giáo có thể nhận thức hợp lý về Đấng Tạo Hóa. Ông cũng nói rằng Hồi Giáo thừa nhận sự mặc khải thật nào đó của Do Thái giáo và Kitô Giáo, trong khi lại minh nhiên từ chối một vài yếu tố trong sự mặc khải này ( nghĩa là họ không là người ngoại giáo ). Để giải thích bằng cách nào mà người Công Giáo và người Hồi Giáo đều tôn thờ Đấng Tạo Hóa và có sự phân biệt niềm tin, Marshall cho biết: “Người ta có thể tôn thờ trực tiếp theo hướng đúng nhưng không hiểu mục đích. Chẳng hạn, nếu bạn bắn mũi tên nhưng thị lực yếu và không thể thấy đích, thế thì bạn có thể bắn đúng hướng mà không thấy đích. Bạn bắn vào mục đích đúng nhưng lại không nhìn thấy đích, hoặc không hiểu biết mục đích. Vả lại, trong trường hợp này, cây cung quá yếu nên không thể đưa mũi tên tới đích. Mũi tên rơi trước khi tới đích”.

“Người bắn cung mù với cây cung yếu” đó chính là Hồi Giáo. Họ bắn mũi tên đúng hướng ( về phía “Thiên Chúa của Ápraham” ), nhưng họ không biết mục đích và cây cung của họ quá yếu vì cây cung của họ thiếu sức mạnh của ân sủng. Điều này giúp làm sáng tỏ vấn đề, nhưng có thể nói rằng chúng ta không nên dễ chấp nhận sự hiểu biết đó là đúng về bản tính của Thiên Chúa – và do đó có mục đích chung.

HƯỚNG TỚI TRIẾT LÝ

Mặc dù Thánh Thomas xác định rằng chúng ta có thể nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa qua lý luận, ngài cũng nói về sự giới hạn về hiểu biết của chúng ta: “Đối với vấn đề Ngài-không-là-gì thì rõ ràng hơn vấn đề Ngài-là-gì” ( ST I q. 1 a. 9, ad 3 ). Khi chúng ta cố gắng nói chi tiết về sự sống của Thiên Chúa mà không có sự trợ giúp của sự mặc khải thật, chúng ta dễ bị sai lầm. Thánh Thomas mô tả cách ngài nói về bản tính của Thiên Chúa: “Khi sự hiện hữu của một vật được xác định ở đó thì vẫn còn lý do khác về cách hiện hữu, để chúng ta có thể biết thực chất của nó. Vì chúng ta không thể biết Thiên-Chúa-là-gì hơn là Ngài-không-là-gì, chúng ta không có cách để hiểu Thiên-Chúa-là-gì hơn là Ngài-như-thế-nào” ( ST I q. 3 prologue ). Ý nghĩa thực sự là chúng ta biết bản tính của Thiên Chúa bằng cách xác định bản tính đó không thuộc xác thịt, phụ thuộc sự thay đổi hoặc sự bất toàn, ngoài giới hạn thời gian và không gian, và không có bất kỳ giới hạn hoặc khuyết điểm nào.

Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI tại Regensburg đưa chúng ta tới vấn đề trừu tượng liên quan bản tính của Thiên Chúa trong Hồi Giáo. Ngài liên hệ cuộc đối thoại giữa Hoàng đế Manuel II Paleologus của Byzantine và hiền triết của Ba Tư, điều này chạm vào sự cần thiết của việc không xác định những gì ngược với bản tính của Thiên Chúa:

Không nói tới chi tiết… [ Hoàng đế ] nói với người đối thoại bằng cách nói sống sượng mà chúng ta không thể chấp nhận, đối với vấn đề chính về mối quan hệ giữa tôn giáo và bạo lực nói chung, rằng: “Hãy cho tôi thấy điều mà Mohammed đưa ra là mới lạ, và quý vị sẽ thấy những điều đó chỉ là xấu xa và dã man, như ngài yêu cầu phổ biến bằng gươm giáo với niềm tin mà ngài rao giảng”.

Sau khi diễn đạt mạnh mẽ, Hoàng đế tiếp tục giải thích chi tiết tại sao việc phổ biến niềm tin qua bạo lực là điều không hợp lý. Bạo lực không tương xứng với bản tính của Thiên Chúa và bản tính của linh hồn. Ông nói: “Thiên Chúa không thích máu – và không hành động hợp lý ( σὺν λόγω ) là ngược với bản tính của Thiên Chúa. Đức Tin sinh ra từ linh hồn chứ không từ thân xác. Bất cứ ai dẫn người khác tới Đức Tin đều cần có khả năng nói tốt và lý luận hợp lý, người ta không cần bạo lực và đe dọa. …Để thuyết phục một linh hồn, người ta không cần một người có đôi tay mạnh hoặc vũ khí, hoặc bất cứ cách nào để đe dọa giết chết”.

Câu xác định trong cuộc tranh luận này để chống lại cuộc đối thoại bạo lực là: Không hành động theo lý lẽ là ngược với bản tính của Thiên Chúa. Biên tập viên Theodore Khoury nhận xét: Đối với Hoàng đế, được định hình theo triết học Hy Lạp, câu này là hiển nhiên. Nhưng đối với giáo huấn của Hồi Giáo, Thiên Chúa tuyệt đối siêu việt. Ý Ngài không không theo phạm trù nào của chúng ta, dù phạm trù đó rất hợp lý. Ở đây Khoury trích dẫn tác phẩm của R. Arnaldez, tác giả người Pháp theo Hồi Giáo. Tác giả này chỉ ra rằng Ibn Hazm đã đi quá xa khi nói rằng Thiên Chúa không bị hạn chế điều gì, ngay cả lời nói, và không gì có thể buộc Ngài phải mặc khải sự thật cho chúng ta. Nếu đó là Ý Chúa, thậm chí chúng ta còn phải sùng bái thần tượng.

Về điểm này, cho tới khi hiểu biết Thiên Chúa và việc thực hành tôn giáo được quan tâm, chúng ta phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Thuyết phục hành động ngược với bản tính của Thiên Chúa chỉ là tư tưởng Hy Lạp hay là luôn luôn đúng ? Ở đây chúng ta có thể thấy sự hài hòa sâu sắc giữa những gì là Hy Lạp theo nghĩa đúng nhất của từ ngữ và cách hiểu theo Kinh Thánh về việc tin vào Thiên Chúa. Xác định câu thứ nhất của sách Sáng Thế, câu thứ nhất của cả Kinh Thánh, Thánh Gioan mở đầu Phúc Âm: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời ( λόγος )”. Chính từ này đã được Hoàng đế sử dụng: “Thiên Chúa hành động, σὺν λόγω, cùng với Ngôi Lời ( Logos )”. Logos nghĩa là cả lý lẽ và lời – một lý lẽ có tính sáng tạo và có khả năng tự giao tiếp, chính xác là lý lẽ.

Mặc dù lời văn của Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI khá quen với nhiều người, tôi vẫn cần trích dẫn, vì tôi tin đây là câu trả lời hay nhất để biết người Hồi Giáo có tôn thờ Một Thiên Chúa thật hay không ( nếu bạn không biết cách ngài tiếp tục phát triển sự tranh luận, bạn phải cố gắng hiểu ). Cuộc tranh luận như sau: Cách hiểu của chúng ta về Đấng Tạo Hóa, dù bằng lý lẽ, là cách xác định sự hoàn hảo tuyệt đối của Ngài và loại bỏ mọi thứ ngược với sự hoàn hảo này. Sự hoàn hỏa này là Sự Thật và Tình Yêu. Thuyết ý chí ( voluntarism ) xác định rằng Ý Chúa không dựa trên sự thật và sự xác định về bạo lực tôn giáo là ngược với tình yêu. Xác định vị trí của Thiên Chúa là vi phạm sự hiểu biết đúng đắn về bản tính của Thiên Chúa.

Thánh Thomas Aquinas dùng kết luận này xa hơn, ngài tranh luận rằng duy trì sự hiểu lầm như vậy về bản tính của Thiên Chúa là cho rằng người ta không tin vào Thiên Chúa thật. Khi chú giải về Phúc Âm theo Thánh Gioan, chương 4 ( xem số 603 ), Thánh Thomas Aquinas hướng về vấn đề chính về sự đơn giản của Thiên Chúa, vấn đề nảy sinh trong cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với người phụ nữ Samari, khi hai người thảo luận về sự khác nhau giữa việc tôn thờ của người Samari, sự tôn thờ này pha trộn với cách tôn thờ của người ngoại giáo và của người Do Thái:

Chúa Giêsu nói: “Các người thờ Đấng các người không biết…” Nên nói rằng, như triết gia Aristotle nói, việc hiểu các điều phức tạp khác với việc hiểu các điều đơn giản. Đối với điều có thể được hiểu về các điều phức tạp theo cách mà điều khác vẫn chưa hiểu; như vậy, có thể hiểu sai về chúng. Chẳng hạn, nếu ai đó hiểu đúng về một động vật theo bản tính của nó, người đó có thể hiểu sai về sự rủi ro của nó, dù nó đen hay trắng; hoặc sự khác biệt, dù nó có cánh hay có bốn chân. Nhưng không thể hiểu sai về các điều đơn giản: Vì chúng được biết đầy đủ bởi vì thực chất của chúng được biết; hoặc chúng không hề được biết chút nào, nếu người ta không thể hiểu chúng. Do đó, vì Thiên Chúa tuyệt đối đơn giản, không thể có sự hiểu sai về Ngài theo nghĩa của điều gì đó có thể được hiểu về Ngài và điều gì đó vẫn chưa hiểu, nhưng chỉ không đạt được cách hiểu về Ngài. Vì thế, bất kỳ ai tin rằng Thiên Chúa là điều gì đó mà Ngài-không-là, chẳng hạn như cơ thể, hoặc điều gì đó như vậy, không tôn thờ Thiên Chúa mà tôn thờ điều khác, vì họ không biết Ngài, mà chỉ biết cái khác.

Áp dụng giáo huấn của Thánh Thomas đối với Hồi Giáo sẽ củng cố cách tranh luận của Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI. Nếu ai đó bám vào điều sai về bản tính của Thiên Chúa, thì người đó – hoặc tôn giáo đó – không thực sự bám vào niềm tin vào Thiên Chúa, mà bám vào cách hiểu sai về Thiên Chúa. Nếu ai đó cho rằng Thiên Chúa là con người vật chất ( như Thánh Augustinô đã tin hồi trẻ ), thì điều này loại trừ niềm tin vào Thiên Chúa thật.

TẠI SAO LÀ VẤN ĐỀ NÀY ?

Bạn có thể hỏi rằng mục đích của việc chỉ ra sự khác biệt trừu tượng này là gì trong niềm tin về Thiên Chúa đối với Hồi Giáo ? Thiết nghĩ mục đích cũng tương tự mục đích của Thánh Thomas khi ngài viết “Summa Contra Gentiles” ( SCG – Tổng luận về việc Đối phó với Dân ngoại ). Tác phẩm này được viết cho các tu sĩ Dòng Đa-minh sử dụng để loan báo Tin Mừng, cho những người nghe, kể cả người Hồi Giáo. Đây là cách Thánh Thomas mô tả ý định của ngài đối với tác phẩm này:

Những người theo Mohammed và người ngoại giáo không đồng ý với chúng ta về việc chấp nhận uy tín của Kinh Thánh, nên họ có thể sai lầm. Vì thế, đối với người Do Thái, chúng ta có thể tranh luận bằng Cựu ước, còn đối với người theo tà thuyết, chúng ta có thể tranh luận bằng Tân Ước. Nhưng người Hồi Giáo và người ngoại giáo chấp nhận điều này mà không chấp nhận điều kia, chúng ta phải dùng lý luận tự nhiên, khiến họ phải đồng ý. Tuy nhiên, đối với các vấn đề về Thiên Chúa, chúng ta không thể dùng lý lẽ tự nhiên ( Bk 1, ch. 2 ).

Tác phẩm SCG được viết trên nền tảng triết học và biện giả để cho thấy tính hợp lý của niềm tin Kitô Giáo, nhưng đặt nền tảng cho niềm tin bằng cách thiết lập rõ ràng những gì có thể biết được nhờ lý luận ( các khai đoạn đức tin ). Thánh Thomas thấy rõ rằng người Hồi Giáo cần được dạy các điều cơ bản về những gì có thể hiểu về Thiên Chúa nhờ lý luận, ngược với sự thất bại tự nhiên. Điều này quan trọng, vì loại bỏ các chướng ngại vật và sai lầm của lý luận khi quan hệ với Thiên Chúa mới có thể dẫn tới Đức Tin.

Thánh Thomas phân biệt giữa cách hiểu về Thiên Chúa hiện hữu và cách hiểu về bản tính của Thiên Chúa. Theo nghĩa này, người ta có thể biết rằng có một Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và vẫn hiểu sai về bản tính của Thiên Chúa. Ngày 6.11.2008, khi nói trên diễn đàn Công Giáo và Hồi Giáo, Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI có vẻ đã gợi ý về cách phân biệt này, chỉ tập trung vào việc tôn thờ cùng một Đấng Tạo Hóa, thậm chí vẫn có sự khác nhau về niềm tin: “Tôi biết chắc rằng người Hồi Giáo và người Kitô Giáo có những cách tiếp cận khác nhau trong vấn đề liên quan Thiên Chúa. Nhưng chúng ta có thể và phải là những người tôn thờ một Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng chúng ta, và phải quan tâm tới mọi người trên khắp thế giới này”. Điều này giúp chúng ta hiểu rằng Giáo Hội muốn cả Công Giáo và Hồi Giáo đều tôn thờ một Đấng Tạo Hóa, và Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI có thể chỉ ra cách hiểu sai về bản tính của Thiên Chúa.

Tác phẩm SCG của Thánh Thomas có ảnh hưởng nhiều tới Kitô Giáo hơn là Hồi Giáo, tôi nghĩ vậy. Việc hiểu sự khác biệt về niềm tin là điều chủ yếu để người Công Giáo chúng ta có thể dùng lý lẽ để suy nghĩ đúng về Thiên Chúa. Đây là một thách đố ở Tây phương, vì nhiều người vẫn cho rằng triết lý siêu hình học là một phần của tôn giáo thay cho triết học. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phản đối điều này trong Tông Thư “Fides et Ratio” ( Đức Tin và Luận Lý ), và Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI cũng đã đề cập điều này trong bài giảng tại Regensburg khi ngài nói về việc “quấy rầy bệnh lý học của tôn giáo và lý luận, điều đó cần vọt lên khi lý luận giảm, các vấn đề về tôn giáo và đạo đức không còn quan tâm tới điều đó”. Ngài nhìn thấy bệnh lý học không chỉ đặt bạo lực vào bản tính của Thiên Chúa, mà còn đặt vào cả Tây phương bị tục hóa.

VỚI NGỤ Ý GÌ ?

Một số người có thể ngần ngại chấp nhận kết luận này, vì nó có vẻ ngược với giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo và sẽ làm tổn hại sự đối thoại tôn giáo. Nhưng tôi lại nghĩ rằng nó có thể giúp chúng ta hiểu tốt hơn về mối quan hệ của chúng ta với Hồi Giáo, kể cả khoảng cách vẫn tách rời niềm tin của họ với niềm tin của chúng ta. Điều đó còn giúp chúng ta hiểu tại sao khó đối thoại. Vì thế, dù có phản ứng mạnh sau bài giảng của Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XXVI tại Regensburg, Hội Đồng Giáo Hoàng về Đối Thoại Liên Tôn vẫn đạt được tuyên bố chung về đức tin và lý luận với các học giả Hồi Giáo đến từ Iran.

Làm sao chúng ta vẫn liên hệ với Hồi Giáo ? Mặc dù Hồi Giáo hiểu sai nền tảng về bản tính của Thiên Chúa, cho Ngài là người duy ý chí và bạo lực, bám vào một Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và Đấng Xét Xử, như Giáo Hội xác nhận. Theo nghĩa này, không phải niềm tin vào Thiên Chúa của chúng ta cũng vậy, nhưng chúng ta theo Giáo Lý tương tự về niềm tin vào Thiên Chúa của chúng ta. Niềm tin của Hồi Giáo gần gũi với chúng ta về bản tính của Thiên Chúa, rồi với giáo phái Mormon và các tôn giáo Đông phương khác, nhưng vẫn khác với một số người có thể nghi ngờ.

Là người Công Giáo, chúng ta nên cẩn trọng về việc sẵn sàng nhận biết hoặc từ chối sự liên hệ với Hồi Giáo. Sự thật là chúng ta thực sự có mối liên hệ về niềm tin, nhưng vẫn có một số điều khác biệt nào đó, thậm chí là khác về bản tính của Thiên Chúa.

Ngày xưa, trước giờ chịu khổ nạn, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh mối quan hệ “nên một” của mọi người khi Ngài cầu nguyện với Chúa Cha: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toànnên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” ( Ga 17, 20 – 23 ).

 

Tiến sĩ R. JARED STAUDT,
bản dịch của TRẦM THIÊN THU
 

Islam, Violence, and the Nature of God“, CatholicWorldReport.com

Ephata