Các bài suy niệm Chúa nhật 12 TN – C

Tin Mừng Lc 9,18-24 : Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Dân chúng nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. Người bảo rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”

CÁC BÀI SUY  NIỆM CHÚA NHẬT 12 TN C

Lời Chúa: Dcr. 12, 10-11; 13,1; Gl. 3, 26-29; Lc. 9, 18-24

 

MỤC LỤC

 

  1. Ơn tha thứ
  2. Sống vì mọi người – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
  3. Từ bỏ luôn cao đẹp – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
  4. Thầy là ai? Ai là Thầy? – Lm. Anmai
  5. Đức Kitô là ai đối với tôi? – Lm GB. Trần Văn Hào
  6. Tuyên xưng đức tin – Lm Giacôbê Tạ Chúc
  7. Từ bỏ chính mình – Lm Ignatiô Trần Ngà
  8. Anh em bảo Thầy là ai? – Gp. Vĩnh Long
  9. Tin hay không tin?
  10. Nhận diện Đức Kitô
  11. Hãy từ bỏ mình
  12. Đức Kitô là ai?
  13. Thầy là ai?
  14. Dấu chứng tình yêu – Thiên Phúc
  15. “Lúc này đây, theo con, Ta là ai?”
  16. Chỉ có Mầu nhiệm Vượt Qua mới quan trọng
  17. Các con bảo Thầy là ai? – Veritas
  18. Tuyên rao Đức Kitô chịu đau khổ
  19. Đáng lý không thể có được… – Achille Degeest.
  20. Mầu nhiệm Vượt Qua là những vấn đề gì?
  21. Lệnh truy nã.
  22. Chúa Nhật 12 Quanh Năm
  23. Đấng Mêsia đau khổ – Flor McCarthy
  24. Những đòi hỏi của cuộc khổ nạn – R. Gutzwiller
  25. Đau khổ sinh hoa trái
  26. Hai câu hỏi – Mark Link
  27. Đồng hành với Chúa – Radio Veritas
  28. Từ bỏ mình
  29. Đau khổ
  30. Con Thiên Chúa
  31. Đấng Kitô
  32. Người là ai?
  33. “Người có đạo” – PM. Cao Huy Hoàng
  34. Anh hùng
  35. Hãy đổi cung!
  36. Biết Đức Kitô
  37. Câu hỏi hơn hai ngàn năm
  38. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang
  39. Cần một niềm xác tín – Lm. Vũ Xuân Hạnh
  40. Đức Kitô – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  41. Phút dừng chân khẳng định căn tính
  42. Tuyên xưng Đức Giêsu thế nào cho phải?
  43. Chú giải của Noel Quesson

 

1. Ơn tha thứ

Khi chúng ta cho ai cái gì, nếu là thứ quý giá thì tự nhiên chúng ta cũng cảm thấy tiếc xót. Nhưng nếu chúng ta cho một cái gì tầm thường, vô giá trị, cái mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ thì đúng là chúng ta cho, chúng ta thí chứ không phải là chúng ta tặng. Một món quà chỉ thực sự là quý giá khi nó biểu tượng cho lòng quý mến của chúng ta đối với người được tặng.

Người Việt Nam chúng ta thường nói: Của ít lòng nhiều, món quà chính là tấm lòng được cụ thể hoá, được diễn tả một cách công khai. Nhưng nếu chúng ta cho, chúng ta tặng để mong được cho lại, được tặng lại, hoặc là để được việc, thì đó là sự đổi chác, là sự mua chuộc, là sự hối lộ, chứ không phải là cái được cho không.

Từ đó ơn sủng của Chúa luôn phải đi đôi với sự dâng hiến, sự tặng không, hay nói theo ngôn ngữ của Kinh Thánh, khi Thiên Chúa ban ơn sủng, thì chính Ngài làm cho chúng ta trở nên dễ thương và dễ mến. Mà điều kiện tiên quyết để làm cho chúng ta trở nên dễ thương và dễ mến chính là gột rửa chúng ta khỏi những vết nhơ, nghĩa là tha thứ tội lỗi.

Ơn tha thứ do đó cũng chính là một ơn sủng. Và đã là ơn sủng thì cũng phải được ban cho. Mà cho đi là mất. Người Pháp gọi tha thứ là Par-doner. Donner là cho, Par là vượt trên, như vậy tha thứ còn hơn cả cho nữa. Và nếu cho là mất, thì tha thứ cũng là một cách mất, nghĩa là phải bỏ quên tự ái, bỏ quên sự bị xúc phạm. Nói tóm lại, tha thứ đòi hỏi phải hy sinh, phải quên mình.

Thực vậy, để có thể tha thứ, Đức Kitô đã phải quên mình đi, đã phải từ bỏ chính bản thân. Nói một cách mạnh mẽ hơn, Đức Kitô đã không lấy nước sông Giođan để thanh tẩy chúng ta, nhưng đã mở rộng trái tim của Ngài, lấy chính những giọt nước và máu cuối cùng từ trái tim bị đâm thâu qua để rửa sạch chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi.

Tuy nhiên, ơn cứu độ không phải chỉ hệ tại việc thanh tẩy, gột rửa và tha thứ, nhưng chủ yếu là làm cho chúng ta được sống chính sự sống của Ngài. Ngài đã chọn một cách thức triệt để nhất hầu chia sẻ sự sống của Ngài cho chúng ta, đó là hy sinh mạng sống của Ngài.

Để có thể sống, chúng ta cần phải ăn uống. Mà đã hễ ăn hễ uống thì phải có những vật hy sinh chẳng hạn như tôm cá, gà vịt, rau quả. Vì thế, Đức Kitô cũng đã muốn trở nên tấm bánh để được bẻ ra, nghĩa là hy sinh, là chết đi để chúng ta có thể ăn và nhờ đó mà được sống. Hơn thế nữa, Đức Kitô không chịu chết để trở thành như một biến cố, một vở kịch cho chúng ta xem. Trái lại mục đích của Ngài là đi trước để mở đường, để trở nên mẫu gương cho chúng ta noi theo và bắt chước.

Bởi thế, người môn đệ Đức Kitô không phải chỉ là kẻ tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa, mà còn phải là người bước theo Ngài. Người môn đệ mà không bước theo thầy thì không còn là người môn đệ đích thật. Nhưng bước theo Ngài mà vai không mang thập giá, lòng không sẵn sàng chịu khổ nhục và liều mất mạng sống, thì cũng chẳng phải là môn đệ chân chính.

Từ đó chúng ta đi tới kết luận: Tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu hôm nay chính là công bố, không phải chỉ bằng lời rao giảng, mà còn bằng một cuộc sống rập khuôn với cuộc sống của Đấng đã vì yêu thương nhân loại mà chấp nhận thập giá. Rao giảng Tin Mừng Đức Kitô là rao giảng về Đấng đã chịu đóng đinh, bằng cách chính mình cũng phải vác thập giá và cùng chịu đóng đinh với Ngài.

 

2. Sống vì mọi người – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Theo báo tuổi trẻ đã đăng về cái chết đẹp của chị Trương Thị Hồng Phượng. Chị đã tình nguyện hiến tặng giác mạc của mình để đem lại ánh sáng cho ai đó sau khi biết mình mắc bệnh ung thư dạ dày. Chị đã an nghỉ ngày 19.05.2010 và gia đình cùng bác sĩ đã thực hiện theo đúng di nguyện của chị.

Chuyện chị Hồng Phượng hiến giác mạc đã làm rung động trái tim hàng triệu con người. Không phải đổi để lấy điều kiện vật chất cho gia đình, dù gia đình chị thuộc loại nghèo xơ nghèo xác, nghèo đến độ các bác sĩ điều trị không cầm nổi nước mắt… Nếu chị bán có rất nhiều người sẵn sàng bỏ tiền ra mua, thậm chí rất nhiều tiền đủ để gia đình chị xoay xở qua lúc khó khăn. Chị có quyền làm như vậy chứ. Chị hiến giác mạc để làm gì? Lấy tiếng ư?

Không! Đơn giản đối với chị con người khi chết rồi cũng trở về cát bụi, dù nghèo hay giàu, sang hay hèn, dù sáng mắt hay mù lòa. Rồi tất cả sẽ là quá khứ, sẽ chìm vào quên lãng, chỉ biết rằng sẽ có một người mù được nhìn thấy ánh sáng, được sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, được tái sinh bằng trái tim của một người phụ nữ nhà quê nghèo mà giàu lòng nhân ái.

Trong truyện Thiên long bát bộ của Kim Dung cũng từng có nhân vật Du Thản Chi vì quá yêu thương nàng A Tử nên đã tự làm mình mù để A Tử được sáng mắt. Đó là cái đẹp của tình yêu, nhưng cũng là cái ngu dốt và nông nổi của tình yêu vì cuối cùng A Tử đã tự móc đôi mắt mình để trả cho Du Thản Chi. Nàng không cảm kích tình yêu vô bờ bến của Du Thản Chi mà ôm xác người yêu Kiều Phong nhảy xuống vực thẳm.

Nếu so sánh với Du Thản Chi, sự hi sinh của chị Phượng có nhiều điều đáng để người đời khâm phục vì chị đâu biết mình sẽ làm cho ai được sáng mắt, đâu cần người sẽ được tái sinh một cuộc đời mới từ trong tăm tối phải cảm kích, trả công… vì chị đã thanh thản về nơi chín suối.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một cuộc sống đẹp. Một cuộc sống đẹp không phải là cuộc sống có nhiều tiền, nhiều của hay có công danh giữa đời. Một cuộc sống đẹp là cuộc sống biết hy sinh để đóng góp cho đời thêm niềm tươi vui và hy vọng. Một cuộc sống dám hiến dâng mạng sống mình cho lợi ích của tha nhân. Một cuộc sống từ bỏ những niềm vui cá nhân để sống vì hạnh phúc tha nhân. Một cuộc sống không tìm niềm vui cho cá nhân nhưng tìm niềm vui trong công việc phục vụ tha nhân.

Đó là một cung cách sống mà Chúa Giêsu đã sống và mời gọi chúng ta hãy sống theo mẫu gương của Ngài. Ngài hằng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo tôi”. Thập giá chình là những bổn phận phải có để chu toàn vì thiện ích của tha nhân. Thập giá qua những hy sinh, những vất vả vì hạnh phúc của tha nhân. Thập giá qua những từ bỏ những đam mê bất chính, những niềm vui tội lỗi để làm gương sáng cho anh em, cho bạn bè. Chính Chúa Giêsu Ngài đã sống chu toàn thánh ý Chúa Cha đã cứu độ nhân loại. Chính Ngài đã từ bỏ mọi sự kể cả vinh dự Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi vì hạnh phúc của chúng sinh. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống mình vì bạn hữu, và để cứu độ nhân gian. Đó là một tình yêu cao vời đến nỗi “không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám chết cho bạn hữu của mình”. Đó là một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu không toan tính thiệt hơn chỉ mong sao mang lại hạnh phúc cho những ai đang ngụp lặn trong đêm tối thất vọng, trong bóng đêm khổ đau.

Có lẽ mỗi người chúng ta đều thán phục cách cho đi của chị Hồng Phượng. Chị đã cho đi mà không so đo tính toán. Chị đã can đảm làm chứng cho một tình yêu vô vị lợi giữa một xã hội mà tình người đang giảm giá để cho vật chất lên ngôi. Con người hôm nay cần tiền chứ không cần tình. Người ta sẵn sàng chà đạp lên công lý, lên tình nhân loại nếu vật chất của họ bị đe doạ. Người ta không còn tình người vì tưởng rằng đồng tiền có thể giải quyết tất cả. Thế nhưng, giữa sa mạc khô cằn tình người vẫn còn đó những con người không để danh lợi thú làm mất đi tấm lòng cao thượng. Họ thà sống nghèo nhưng tấm lòng họ thật thanh cao. Họ sẵn sàng cống hiến cho đời đến hơi thở cuối cùng. Đó phải là cuộc sống của những người môn đệ Chúa. Một cuộc sống trao ban mà không so đo tính toán. Một cuộc sống hiến dâng đầy quảng đại và vô vị lợi. Một cuộc sống dám chấp nhận như hạt lúa chịu mục nát để mang lại màu xanh cho cuộc đời.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết từ bỏ chính mình để sống một cuộc sống có ích cho tha nhân. Ước gì mỗi người chúng ta biết khôn ngoan chọn lựa những giá trị vĩnh cửu thay cho những phù phiếm mau qua, như cha ông ta từng nói:

“Người trồng cây hạnh người chơi

Ta trồng cây phúc để đời về sau”.

Nguyện xin Chúa là Đấng dám chết cho người mình yêu giúp chúng ta biết sống cao đẹp trong hy sinh từ bỏ, trong bác ái dấn thân vì lợi ích tha nhân. Amen.

 

3. Từ bỏ luôn cao đẹp – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có thể nói mà không sợ sai lầm rằng: những người biết từ bỏ sẽ làm nên những cuộc đời đẹp cho trần gian. Từ bỏ ở đây có thể là một cuộc sống giầu sang, với chức tước và địa vị cao, nhưng họ đã từ bỏ để sống cho người nghèo và như người nghèo. Từ bỏ ở đây cũng có thể là một quá khứ lầm lỗi, nhưng họ đã từ bỏ để sống cao đẹp hơn. Vâng, một cuộc từ bỏ bao giờ cũng đẹp. Trong hoàn cảnh nào cũng đẹp. Từ bỏ sẽ làm cho đời người có ý nghĩa với bản thân và với tha nhân.

Một tháng nay, thực khách đến với quán cơm từ thiện Nụ Cười ở quận 3 (TPHCM) hết sức bất ngờ và thú vị khi được một “ông Tây” phục vụ cơm cho mình.

Nhân viên bồi bàn đặc biệt đó là ông John Kelly, từng làm Giám đốc bưu điện ở thành phố Palo Alto, thủ phủ của thung lũng Silicon (Mỹ). Sau khi nghỉ hưu, ông John quyết định làm tình nguyện viên toàn thời gian tại quán cơm Nụ Cười.

Ông John Kelly chia sẻ: “Thông qua lời giới thiệu của một người bạn, tôi đến quán Nụ Cười tặng một ít tiền và trở thành tình nguyện viên ở đây. Công việc rất bận rộn nhưng tôi yêu bầu không khí ở nơi này”.

Hình ảnh ông John Kelly thật đẹp khi ân cần phục vụ trong quán cơm như người hầu bàn. Ông lau dọn. Ông chạy bàn khi khách yêu cầu. Ông luôn dễ mến đáng yêu đối với mọi người. Ông đã từ bỏ một đời sống nhung lụa, giầu sang, tiện nghi để sống cho người nghèo và vì người nghèo. Hình ảnh ông toát lên vẻ thanh thoát của con người biết từ bỏ chính mình để sống cho tha nhân.

Cuộc đời của người ky-tô cũng chỉ đẹp khi biết từ bỏ. Từ bỏ ý riêng để sống cho ý Chúa. Từ bỏ tội lỗi để sống theo lề luật của Chúa. Từ bỏ bản thân để sống vì lợi ích tha nhân. Nhất là từ bỏ chính mình để Chúa được lớn lên trong ta. Từ bỏ không chỉ là một lời mời gọi mà còn là một mệnh lệnh cho những ai tin theo Chúa. Tin Chúa phải theo Chúa. Có đi theo là có bỏ lại đằng sau. Bỏ lại những gì không cần thiết trong đời sống. Bỏ lại những gì làm cản bước chân ta. Bỏ lại tất cả những ràng buộc trần gian để con người sống gắn bó với Chúa hơn, sống cho Chúa để vì Chúa mà phục vụ anh em.

Giáo hội đã từng có những con người làm đẹp cho vườn hoa giáo hội qua đời sống từ bỏ như: Một Phan-xi-cô khó khăn đã từ bỏ nhung lụa để sống nghèo và cho người nghèo. Một Phan-xi-cô Xa-vi-ê đã từ bỏ danh vọng để sống cho Tin mừng. Một Augustino đã từ bỏ những lối đường lầm lạc để sống yêu mến Chúa trọn đời. Các ngài dám từ bỏ là vì niềm tin vào Đức Ky-tô. Các ngài đã khám phá ra Đức Ky-tô là kho tàng vô giá, là hạt ngọc quý báu để có thể đánh đổi tất cả mà chọn Đức Ky-tô là phần gia nghiệp đời mình. Không có Đức Ky-tô, các ngài vẫn chìm đắm trong danh lợi thú trần gian. Nhưng một khi đã gặp Đức Ky-tô, các ngài đã từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy từ bỏ để đi theo Chúa. Hãy từ bỏ những gì không xứng hợp với danh nghĩa ky-tô hữu. Hãy từ bỏ những gì làm cản trở bước tiến nhân đức của chúng ta. Hãy từ bỏ những gì làm nguy hại cho thân xác và linh hồn chúng ta. Hãy chọn Đức Ky-tô là gia nghiệp hơn là những vinh hoa phú quý mau qua. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa hơn là tìm kiếm những của cải mau hư nát. Đây là một cuộc từ bỏ không mất mát mà là một cuộc từ bỏ để chọn những điều thiện hảo hơn, chân thiện mỹ hơn. Đây là một cuộc từ bỏ để lấy lại chính mình. Nếu chúng ta còn bị ràng buộc bởi đam mê như từ bỏ tật xấu: uống rượu, cờ bạc… mà ta được thong dong và tự do hơn. Nếu chúng ta còn sống ích kỷ thì nhờ từ bỏ lối sống tầm thường này mà ta được nhìn nhận là cao thượng hơn, đáng kính trọng hơn trước mặt người đời.

Ước gì chúng ta luôn thể hiện niềm tin theo Chúa bằng việc từ bỏ để hoàn thiện mình mỗi ngày một tốt hơn. Amen.

 

4. Thầy là ai? Ai là Thầy? – Lm. Anmai

Sống trên đời này, chuyện hết sức quan trọng của cuộc đời mỗi người đó chính là việc xác định nguồn cội của mình. Khi xác định được nguồn cội của mình thì mình sẽ sống hết lòng hết sức với cái nguồn cội ấy. Còn khi ta không biết nguồn cội của ta thì ta sẽ sống một cuộc đời vất vưởng.

Niềm tin của mỗi người sẽ hướng con người về cội nguồn ấy. Với Phật tử, họ tin rằng có kiếp luân hồi để rồi người ta sống ở đời này làm lành và cấm sát sinh để sau này khi trở về với vòng luân hồi thì họ sẽ không phải làm cái thân cái phận của những con vật thuở sinh thời họ đã giết. Cấm sát sinh là điều hết sức quan trọng của Phật tử. Người Công Giáo thì lại khác, người Công Giáo thì lại tin rằng con người phát xuất từ Thiên Chúa. Sau cái cõi nhân gian này, con người sẽ trở về với tro bụi và chờ thân xác phục sinh để hưởng phúc Thiên đàng mà Thiên Chúa đã hứa ban.

Trong hành trình cứu độ, Thiên Chúa lúc ẩn, lúc hiện để nhắc nhớ cho con người rằng chính Ngài là Chúa, là chủ cuộc đời của họ. Ngài nhắc nhở cho con người qua môi miệng của các ngôn sứ.

Dân Israel là một dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương và luôn ấp ủ trong lòng bàn tay của Ngài nhưng vì kém lòng tin, nhưng vì kiêu ngạo nên Israel đã nhiều lần muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình cho rảnh mắt.

Những ngôn sứ nói lời Thiên Chúa cho dân thì có người này người kia, người lớn người nhỏ. Có những ngôn sứ lớn và nổi tiếng như Isaiam Giêrêmia nhưng cũng có những ngôn sứ nhỏ bé như Hôsê, Xôphônia, Khácgai, Dacaria… Hôm nay, chúng ta được nghe lời sấm của Thiên Chúa từ miệng của Dacaria, một ngôn sứ hết sức nhỏ bé.

Dacari đã công bố cho Israel biết rằng Đức Vua của Israel đang ngự đến trong khiêm tốn, trên một con lừa mà có cả con của nó đi theo mẹ. Đức Vua của Israel sẽ quét sạch chiến xa khỏi Épraim và chiến mã khỏi Giêrusalem, cung nỏ chiến tranh cũng sẽ bị Đức Vua bẻ gãy, Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng trái đất. Đức Vua của Israel sẽ xuất hiện giữa dân người, mũi tên của Người sẽ phóng đi tự tia chớp, Người sẽ tiến bước trong gió bão phương Nam. Đức Vua sẽ che chở cho dân và nghiền nát và chà đạp những viên đá phóng… Đức Vua sẽ cứu thoát dân của Người như mục tử cứu thoát đoàn chiên…

Qua miệng của Giacaria, hôm nay Đức Vua của Israel còn hứa: Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng. Ngày ấy, tiếng khóc than sẽ vang dội khắp Giêrusalem, như người ta than khóc thần Hađát Rimmôn ở cánh đồng Mơghítđô. Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế. Không chỉ thế, Đức Vua còn hứa thêm rằng: Ta sẽ đưa một phần ba này qua lửa, sẽ luyện chúng như người ta luyện bạc, và thử chúng như thử vàng. Chính chúng sẽ kêu cầu danh Ta, và Ta, Ta sẽ đáp lời chúng; Ta sẽ nói: “Chúng là dân của Ta”, chúng thưa lại: “Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi.”

Dừng lại một chút, chúng ta thấy mối tình giữa Thiên Chúa và dân Israel sao mà hay quá, sao mà đẹp quá! Thiên Chúa đã quên hết tất cả tội lỗi, tẩy trừ tội lỗi cho dân để cho dân được trở thành con cái của Thiên Chúa như ngày xưa khi chưa phạm tội. Thiên Chúa luôn luôn hứa rằng Chúa là Chúa của dân và điều Ngài mong đợi duy nhất đó chính là dân nhận ra Ngài là Chúa của họ. Thế nhưng, đáng tiếc thay tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân đã bị dân bóp méo, bị dân làm cho nó ra hoen ố.

Thật sự ra mà nói thì cuộc đời nó không suông sẻ như người ta nghĩ. Giá như mà dân Israel lúc nào cũng tuyên xưng “Đức Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi” thì hay biết mấy và chẳng có vấn đề gì cả. Dân Israel ngày xưa đã không trung thành giữ giao ước như lòng Chúa mong ước. Vì cái giao ước Tình Yêu được thiết lập bị bẻ gãy để rồi Thiên Chúa đã sai chính đứa con duy nhất, con Một của Ngài xuống trần gian để hàn lại, để sửa lại giao ước mà con người đã đánh mất.

Chúa Giêsu đã đến trong trần gian, đã sống trong trần gian một cách hết sức gần gụi, hết sức thân thương. Cũng đáng tiếc là trong cái hết sức gần gụi, hết sức thân thương đó đã làm cho người ta mờ con mắt ra và người ta không thấy Chúa Giêsu.

Trang Tin mừng hết sức vắn gọn hôm nay Thánh Luca thuật lại cho chúng ta hết sức là hay, vỏn vẹn chỉ có 4 câu thôi. Thật ra 4 câu nhưng chỉ có một câu quan trọng “Dân chúng nói Thầy là ai?”. “Dân chúng nói Thầy là ai?” mới là chuyện quan trọng.

Chúa Giêsu hỏi và rồi người này kẻ nọ cũng trả lời nhưng phải chăng những câu trả lời ấy là những câu trả lời theo lối nhìn “phàm tục”. Duy nhất chỉ có câu trả lời của thánh Phêrô là câu trả lời “thánh thiêng”. Phêrô trả lời hết sức chính xác rằng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Câu trả lời hết sức quan trọng nhưng quan trọng hơn là sống câu trả lời đó như thế nào?

Thánh Phêrô trả lời đúng, các môn đệ khác trả lời chưa đúng nhưng cũng kịp thời sửa sai câu trả lời của mình theo như câu trả lời của Thánh Phêrô. Chuyện quan trọng là các môn đệ đã sống trọn vẹn cuộc đời của mình với câu trả lời của Thánh Phêrô.

Không phải ngày xưa Chúa Giêsu mới hỏi, ngày hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta: Ai là thầy của chúng ta và thầy của chúng ta là ai trong cuộc đời của chúng ta. Mỗi người chúng ta trong mỗi bậc sống đều phải trả lời cái câu hỏi này vì câu hỏi này là câu hỏi căn cốt, câu hỏi quyết định đời sống của chúng ta.

Là chồng, chúng ta có can đảm trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Là vợ, chúng ta có can đảm trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Là con, chúng ta có can đảm: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Là bề trên trong cộng đoàn tu, chúng ta có can đảm trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Là bề dưới trong cộng đoàn tu, chúng ta có can đảm trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Nếu chúng ta can đảm trả lời “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” như Thánh Phêrô thì chúng ta cũng hãy diễn tả cuộc đời của chúng ta như Thánh Phêrô cũng như các môn đệ xưa đã diễn tả, đã sống. Đừng để cho lời nói của chúng ta xa lìa hành động của chúng ta. Khi chúng ta để lời nói xa rời hành động thì con người của chúng ta chẳng ra làm sao cả.

Văng vẳng bên tai lời của Chúa Giêsu: “Không phải những ai nói Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào Nước Trời”. Nếu chúng ta tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa mà chúng ta không sống theo lời tuyên xưng ấy thì lời tuyên xưng của chúng ta cũng chỉ là lời tuyên xưng trống rỗng và sáo ngữ.

Nguyện xin Chúa Giêsu ban thêm sức cho mỗi người chúng ta để chúng ta can đảm tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa thì chúng ta cũng sống đúng như lời chúng ta tuyên xưng ấy. Xin Chúa ban sức cho chúng ta để chúng ta nhận ra Chúa chính là Thầy, là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống và là cùng đích của cuộc đời chúng ta.

 

5. Đức Kitô là ai đối với tôi? – Lm GB. Trần Văn Hào

Có một họa sĩ khá nổi tiếng muốn họa lại chân dung của Chúa Giêsu, đấng mà ông ngưỡng mộ. Tuy nhiên, ông không biết phải làm cách nào để hiển thị những nét đẹp mà ông đã trải nghiệm. Ông lang thang khắp đó đây để tìm kiếm những hình mẫu. Thoạt đầu, ông gặp một đứa bé đang tươi cười với dáng vẻ trong sáng ngây thơ. Ông đưa nét đơn sơ ấy vào bức tranh. Gặp một vị ẩn sĩ đang đăm chiêu cầu nguyện, ông cũng đưa nét thanh thoát vào trong gương mặt của Chúa. Thoáng thấy một bà mẹ trẻ đang âu yếm đứa con, ông cũng họa lại nét dịu dàng nơi bức vẽ. Nói chung, bất cứ vẻ đẹp nào trong cuộc sống mà ông nhìn thấy, ông đều cố gắng lột tả nơi bức tranh, để phác lại chân dung thánh thiện tuyệt hảo của Đức Giêsu. Hoàn thành xong tác phẩm, ông vẫn cảm thấy như còn thiếu một điều gì. Cuối cùng, khi đi lang thang ngoài bìa rừng, ông gặp một bóng ma trông rất khiếp sợ. Đúng hơn, đây không phải là bóng ma, nhưng là một con người bằng xương bằng thịt, một con người cùng khổ đang bị xã hội ruồng bỏ. Người đàn ông này bị cùi. Ông ta phải lấy khăn che mặt và lầm lũi lê bước giống hệt một bóng ma. Chàng họa sĩ chợt nghĩ, đây chính là nét độc đáo nơi con người của Đức Giêsu, bởi vì Ngài vẫn luôn mãi là một mầu nhiệm ẩn dấu mà con người không thể hiểu thấu cách tường tận. Chàng nghệ sĩ trở về nhà và vẽ phủ lên khuôn mặt Đức Giêsu một tấm khăn mỏng, giống tấm khăn che mặt của người cùi mà ông đã gặp. Gương mặt của Chúa Giêsu trông mờ mờ, lúc ẩn lúc hiện, để nói cho chúng ta biết rằng, Ngài vẫn luôn là một mầu nhiệm bí ẩn đối với đầu óc suy lý của con người chúng ta.

Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?

Ngày xưa Chúa đã hỏi các tông đồ như thế. Câu hỏi này cũng được lặp lại cho chúng ta ngày hôm nay. Sau một thời gian chúng ta đi theo Chúa, Đức Giêsu cũng muốn hỏi lại một lần nữa để mời gọi chúng ta thẩm định lại cảm thức đức tin nơi mỗi người. Nếu chỉ đứng trên góc độ thuần lý theo sự suy tính nhân loại, có lẽ chúng ta là những con người xuẩn ngốc và khờ dại nhất. Chúng ta tin vào một con người cũng rất bình thường, một con người chưa từng bước chân vào giảng đường đại học, chẳng có một mảnh bằng để vắt vai, và cũng là một con người mà chúng ta chưa từng bao giờ gặp gỡ. Tệ hại hơn, con người chúng ta tin lại khác xa chúng ta về mầu da, về ngôn ngữ, về văn hóa, và chẳng có gì đặc sắc để chúng ta xem như thần tượng. Đã có một thời, một số cán bộ mỉa mai và nói với những người Công giáo rằng, đạo Công giáo của các anh chỉ là một thứ đạo lai căng, do thực dân hay đế quốc du nhập vào, không có ăn nhập gì với văn hóa Việt Nam cả. Ngày nay, nếu có ai lý luận như thế chúng ta sẽ phản kháng ngay tức khắc. Nhưng điều quan trọng hơn cả, là chúng ta phải tự hỏi mình xem, tôi đã lãnh nhận đức tin và đâu là động cơ để tôi đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Đồng thời, chúng ta cũng phải lục soát lương tâm để xem mình đã diễn bày niềm tin ấy cụ thể như thế nào. Câu hỏi của Chúa đối với các học trò năm xưa cũng được lập lại cho chúng ta ngày hôm nay: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Chúng ta vẫn xác quyết rằng Đức Giêsu, đối tượng đức tin của chúng ta không phải chỉ là một nhân vật lịch sử, hay là một siêu nhân nào đó có những đặc nét khiến chúng ta nể phục. Không phải thế. Đấng chúng ta tin là một Thiên Chúa đã đi sâu vào phận người, chung chia kiếp sống khổ đau với chúng ta, đã chấp nhận cái chết kinh hoàng trên Thập giá để khai mở cho chúng ta chân trời cứu độ. Chỉ đi sâu vào niềm tin này, chúng ta mới có thể nói được như thánh Phaolô: “Tôi coi tất cả mọi sự là thua thiệt so với mối lợi là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Vì người, tôi đành mất hết, tôi coi tất cả như rơm rác để chiếm được Đức Kitô và được kết hợp với Người (Phil 3,8-9).

Thể hiện đức tin cách cụ thể.

Vào năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thực hiện chuyến công du tại nước Pháp, một đất nước vẫn được mệnh danh là trưởng nữ của Giáo hội, và cũng là nơi mà đạo Công giáo có một lịch sử phát triển rất hùng mạnh. Điều lạ lùng, là trong lần thăm viếng đó, rất nhiều cuộc biểu tình đã xảy ra để chống lại Giáo hội, chống lại Đức Thánh Cha. Các nhóm xuống đường với nhiều khuynh hướng khác nhau. Có nhóm thì cấp tiến, có nhóm bảo thủ. Có nhóm chủ trương đòi Giáo hội phải cho phép ngừa thai, thậm chí cho phá thai. Có nhóm đòi quyền kết hôn đồng tính hay chủ trương sống phóng khoáng trong đời sống tình dục, không theo bất kỳ một luật lệ hay quy chuẩn luân lý nào. Đau lòng hơn cả là có khá nhiều bạn trẻ Công giáo đã đồng loạt ký tên vào một bản tuyên bố, công khai rút tên khỏi Giáo hội. Khi đến thăm Việt Nam vào năm 1989, Đức Hồng y Etchegarey cũng nói rằng, Giáo hội Việt Nam hiện nay giống Giáo hội Pháp 30 năm về trước, tức là giáo dân hiện vẫn còn sốt sắng giữ đạo và thực hành đức tin, nhưng sẽ đến lúc Giáo hội Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng giống Giáo hội Pháp bây giờ. Điều đó đang và sẽ còn tiếp tục xảy ra. Nhiều bạn trẻ đang lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ, làm mọi cách kiếm thật nhiều tiền, ăn chơi sa đọa và dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của họ. Người tín hữu Việt Nam hiện nay cho dù vẫn đến nhà thờ khá đông vào các ngày Chúa nhật, nhưng nền tảng đức tin vẫn chưa thực sự sâu xa như Đức Hồng y Etchegarey đã từng nhận xét: “Đa phần tín hữu Việt Nam vẫn chưa biết cầu nguyện”.

Kết luận

Trong bộ sách ‘Tự thuật’ (Confessio), Thánh Augustinô có viết một giai thoại với hai nhân vật: Ngài và người trộm lành. Ngài hỏi vị thánh ăn trộm: “Này anh bạn, anh chưa được rửa tội, chưa từng học giáo lý, chưa biết tí gì về Đức Giêsu, chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ, thế thì tại sao anh lại nhận ra ông Giêsu, người cũng bị xử tử trên Thập giá giống như anh, là Đấng Cứu thế và tin vào Ngài?” Người trộm lành trả lời: “Ông nói đúng. Tôi chưa hề biết Đức Giêsu là ai. Tôi cũng chưa phải là người Công giáo và chưa được rửa tội. Nhưng trong những giờ phút bi thương cuối cùng trước khi chết, tôi đã nhìn vào đôi mắt của Ngài. Từ ánh mắt hiền dịu ấy, tôi khám phá ra cả một bầu trời mênh mông của tình yêu vô tận. Cặp mắt Đức Giêsu đã chọc thủng bức màn tăm tối nơi tâm hồn tôi và tôi đã tin vào Ngài. Cuộc hành trình đức tin của tôi được khởi đầu bằng chính ánh mắt yêu thương của Chúa Giêsu”. Đây quả là một tên trộm kiệt xuất, bởi vì trước khi chết anh ta còn ăn trộm được cả nước Thiên đàng nữa.

‘Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?’. Chúng ta hãy học hỏi động thái đức tin của ông Thánh ăn trộm trên đây. Chúng ta cũng có thể bắt chước ông Dunan, người sáng lập hội Hồng Thập tự quốc tế, đã cho khắc trên ngôi mộ của mình hàng chữ: “Hoặc tôi là môn đệ của Chúa Giêsu, hoặc tôi không là gì cả”.

 

6. Tuyên xưng đức tin – Lm Giacôbê Tạ Chúc

Trong cuộc đời công khai rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu được khen cũng nhiều và bị chê cũng không ít. Ông này quả là một Tiên tri, một ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện, người ta ca khen Ngài. Nhưng cũng lắm kẻ, ông này là con bác thợ Giuse, Nazareth có cái gì hay đâu. Thôi thì “ miệng lưỡi thế gian mà”, hơi đâu cho mệt. Đức Giêsu biết tất cả, nhưng điều quan trọng không phải là cái gọi “ người ta” mà phần “chúng con”, Thầy là ai? Đức tin và niềm xác tín của những môn đệ mới là điều quan trọng, và cái mà Đức Giêsu lưu tâm, để ý đến.

Họ hay thế gian không nhìn nhận ở Chúa Giêsu là Ngôi Lời Hằng Hữu luôn tồn tại và nội tại trong chính Thiên Chúa Cha, bởi quyền năng Chúa Thánh thần. Dưới con mắt của những nhà thông thái, triết gia, thần học và chính trị, thì Đức Giêsu chỉ là một con người như mọi người, hoặc cùng lắm là một Ê-li-a hay Gioan Tẩy Giả mà thôi. Câu trả lời trắc nhiệm mà Phê-rô đưa ra như là một phần cơ bản của Kinh tin kính: “ Thầy là Đấng Kitô con Thiên Chúa”, vâng một lập trường dứt khoát và đầy cảm hứng của Chúa Thánh Thần. Không phải là một lời bột phát, nông nổi mà là một hành trình trong cảm nghiệm, bởi ý chí và lòng yêu mến. Có lẻ, phải bật nẩy môi trong cảm động và liều lĩnh, mà Phê-rô mới dám mạnh dạn tuyên xưng niềm tin, của một Tông đồ đứng đầu danh sách các người mà Chúa Giêsu tuyển lựa.

Tuyên xưng không chỉ ngoài môi miệng mà còn bằng chính đời sống của mình. Không ai có thể phàn nàn về lời bộc lộ của Phê-rô, bởi chưng thánh nhân đã kiên trung, một lòng theo Chúa Giêsu trên con đường Khổ giá, và hy sinh đến giọt máu cuối cùng cho lời mà mình đã thốt ra. Kỷ niệm 25 năm ngày Đức cố Giáo hoàng Gioan Pho-lô II tôn phong các Thánh tử đạo Việt nam, cũng nói lên rằng: Các Ngài đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và là Đấng cứu độ trần gian. Niềm tin của các Thánh Tử Đạo đã viết nên dòng lịch sử tràn đầy ân sủng, Thập giá và vinh quang triều thiên mà hôm nay, hậu thế vẫn mãi dõi theo.

Đức Giêsu không hứa ban một hạnh phúc nào ngoài chính Thập tự Giá của mình. Người môn đệ tin và đón nhận trong sự vâng phục, và tín thác hoàn toàn. Nếu câu hỏi được mở ra từ đoạn đầu Tin mừng, như là một phần của lý thuyết, thì càng dần về sau, bài học thực hành được hé lộ một cách hết sức rõ ràng: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác Thập Giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23).

 

7. Từ bỏ chính mình – Lm Ignatiô Trần Ngà

Một vị linh sư Ấn-độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến gần bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quý như một lễ vật nhập môn. Vị linh sư mở mắt, thấy hai viên ngọc long lanh dưới chân mình, chẳng nói một lời, cầm lấy một viên ném thẳng xuống sông.

Hết sức ngỡ ngàng và tiếc nuối, chàng thanh niên vội nhảy xuống sông và lặn xuống tận đáy cố tìm cho bằng được viên ngọc quý giá. Thế nhưng, dù chàng phải hì hụp suốt ngày ngoi lên lặn xuống để tìm kiếm, viên ngọc vẫn biệt tăm.

Chiều đến, với vẻ mặt thất vọng, chàng đến gặp vị linh sư để xin ngài chỉ đích xác chỗ ngọc rơi xuống nước để tìm cho nhanh.

Bấy giờ vị linh sư cầm lấy viên ngọc thứ hai, ném nó xuống sông và nói: “Ta đã ném nó vào chỗ nầy nầy. Anh hãy lặn xuống mà tìm kiếm.”

Bấy giờ chàng thanh niên bỗng giác ngộ. Anh chợt hiểu ra rằng bài học vỡ lòng mà vị linh sư dạy là nếu anh muốn trở thành môn đệ của ngài thì điều kiện tiên quyết là phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự của mình. (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)

Qua trích đoạn Tin Mừng thánh Lu-ca được đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đưa ra một lời khuyên tương tự. Người nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình.” (Luca 9, 23)

Chúa Giêsu không chỉ kêu mời ta từ bỏ những gì mình có, nhưng là từ bỏ chính bản thân ta, vì nếu chỉ từ bỏ mọi thứ ta có mà không từ bỏ “thằng-tôi” tham lam của mình, thì chính “thằng-tôi” nầy sẽ lấy lại tất cả những gì nó đã vứt bỏ đi.

Tại sao cần phải từ bỏ chính mình?

“Thằng-tôi / cái-tôi” kiêu hãnh và nhiều tham vọng nơi mỗi người là nguồn gốc gây ra đủ mọi thứ tội. “Bảy mối tội đầu” (bảy tội gốc làm phát sinh những tội lỗi khác) luôn hiện diện trong bản thân chúng ta và xô đẩy chúng ta xuống vũng lầy tội lỗi. Kiểm điểm lại, chúng ta thấy trong bản thân mình thường có những “thằng-tôi / cái-tôi” nổi cộm sau đây:

  1. “Tôi-kiêu-ngạo”

Tên nầy đứng đầu trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy vênh vang tự đắc, tự đặt mình cao cả hơn người khác và không muốn cho người khác hơn mình nên đâm ra ghen tị, oán ghét những ai nổi trội hơn.

  1. “Tôi-tham-lam-ích-kỷ”

Tên nầy chỉ biết nghĩ đến mình và tỏ ra vô cảm, thờ ơ trước những nỗi đau thương khốn khổ của người khác. Tên nầy chỉ biết thu vén lợi lộc cho mình mà không màng gì đến quyền lợi của tha nhân.

  1. “Tôi-tà-dâm” đứng hàng thứ ba trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy là nguyên nhân của biết bao vụ ngoại tình, loạn luân, phá thai, mua bán dâm và rất nhiều tệ nạn khác.
  2. “Tôi-lạc-thú” đứng hàng thứ năm trong danh sách bảy mối tội đầu. Tên nầy xui khiến người ta mê đắm ma túy, rượu bia, mê say bài bạc… làm suy đồi phẩm chất, làm tan cửa nát nhà, phá vỡ hạnh phúc gia đình, làm hỏng cuộc đời của mình và của những người liên hệ.

Những “thằng tôi” hư hèn đó đang ngự trị trong lòng ta, đang chỉ huy, lèo lái bản thân ta – như người ta điều khiển con rối – và xô đẩy bao người vào thảm họa.

Làm sao thoát khỏi sự chế ngự, xô đẩy, lôi kéo của chúng?

Chúa Giêsu đưa ra một giải pháp, gói gọn trong cụm từ: “Hãy từ bỏ chính mình.” Người lên tiếng kêu gọi mọi người: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ chính mình” (Luca 9,23)

Khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giêsu muốn chúng ta kiên quyết triệt hạ những “thằng tôi / cái-tôi” mắc dịch nầy, không để chúng điều khiển, lèo lái, chỉ huy cuộc đời ta nữa.

Chúa Giêsu từ bỏ chính mình

Trước khi kêu gọi mọi người từ bỏ chính mình, Chúa Giêsu đã từ bỏ mình trước.

Người là Thiên Chúa cao sang quyền phép, nhưng đã huỷ mình đi để trở thành một trẻ sơ sinh yếu đuối nằm trong chuồng bò.

Nguời là Chúa Tể trời đất, nhưng đã tự hủy và trở nên nghèo thiếu không ai bằng. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 19,58)

Người là Thiên Chúa hùng mạnh nhưng đã hạ mình, trở thành tên tội nhân để cho người ta đánh đập, xỉ nhục và đóng đinh vào thập giá.

Người là Thiên Chúa quyền năng đồng hàng với Chúa Cha, nhưng Người đã xoá mình đi để trở thành Người tôi tớ hằng vâng phục Chúa Cha.

Thánh Phao-lô tóm tắt đời Người như sau:

“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2, 6-8)

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã hủy mình ra không nên đã chiến thắng thế gian và cứu rỗi được muôn người. Xin cho chúng con biết noi gương Chúa, kiên quyết từ bỏ chính mình để thực sự làm chủ bản thân và xứng đáng là người môn đệ chính danh của Chúa.

 

8. Anh em bảo Thầy là ai? – Gp. Vĩnh Long

Luca đọc đoạn nầy dưới ánh sáng Phục Sinh nghĩa là khi Giáo Hội đã tin chắc chắn Đức Giêsu là Chúa và là đấng Cứu Thế (Kitô). Kitô là từ Hy lạp. Messia là Do thái. Khác nhau. Messia Do thái mang niềm hy vọng Do thái về một vị vua oai hùng giải phóng đất nước Do thái về mặt chính trị. Còn Kitô là đấng Cứu thế được rao giảng cho dân ngoại, không còn hơi hám Do thái. Là Cứu Thế chứ không phải cứu tinh Do thái. Là cho cả thế gian.Do đó Luca bỏ đi những chi tiết có trong Mathêu và Marcô là văn hoá Do thái. Nên chúng ta thấy câu chuyện rất suông sẻ, thoát ra khỏi những khúc mẳc vòng vèo của truyền thống Do thái vg. chuyện Phêrô chưa hiểu vì sau Phục Sinh đã hiểu rất rỏ rồi. Chẳng những đã hiểu mà còn đã tin như đinh đóng cột rồi. Luca viết lại như đã tin. Bài gồm 3 phần rõ rệt:

1/ Tuyên xưng Đức Giêusu là Đấng Kitô mà còn thêm cho rõ là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Không phải của loài người thì càng không phải của Do thái. Cũng không nói là mạc khải của Chúa Cha. Là một tuyên xưng đức tin của Giáo Hội( giả thiết đã hiểu và đã tin chắc chắn nên mới tuyên xưng).(c.20) Giữ lại c. 21 cho bản văn có vẻ nguyên thuỷ là “không được nói điều ấy với ai”.

2/ Giải thích Đức Kitô của Thiên Chúa là:

Con Người phải chịu đau khổ……Đức Kitô là người đầy tớ đau khổ của Thiên Chúa theo như Isaia đã tiên báo.Bây giờ đây không phải là loan báo sự thương khó nữa mà ĐG đã chịu thương khó rồi, đã Phục Sinh vinh quang và đang sống. Nên không có chuyện cải lại của Pherô và câu chuyện tiếp theo như trong Mathêu và Marcô. Đây là lời rao giảng cho dân ngoại.

3/ Điều kiện để làm môn đệ theo Đức Kitô: “Ai muốn theo tôi thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Theo là vác thập giá mình hằng ngày chứ không phải muốn ngồi tả hữu hoặc được vinh quang nào đó như trước kia mọi môn đệ đều mong ước.

Đức Kitô của tôi cũng phải là Đức Kitô của Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa sai và làm ý của Thiên trong mọi sự. Xin Chúa Giêsu giúp con xác quyết ‘đi theo Chúa là từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo’.

 

9. Tin hay không tin?

Phêrô đã tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, còn chúng ta, chúng ta có tin Ngài hay không? Hẳn chúng ta còn nhớ lời tiên báaacute;o của ông già Simêon: Con trẻ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp phạm. Và sự thật đã được minh chứng qua dòng thời gian.

Đúng thế, Đức Kitô đã chia nhân loại thành hai giới tuyến rõ rệt. Tin hay không tin, kiến thiết hay phá hoại như lời Ngài đã nói: Ai không cùng Ta kiến thiết đó là kẻ phá hoại. Đức Kitô không chấp nhận những thái độ lừng khừng và do dự, những thái độ đi nước đôi và bắt cá hai tay. Vì ngươi không nóng cũng không lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.

Tuy nhiên dầu tin hay không tin, tất cả mọi người đều biết rằng: Ngài không phải là một triết gia như những triết gia khác, lý thuyết của Ngài không phải là một lý thuyết suông, chẳng dính dáng gì đến đời sống con người và tín thư Ngài đã mang lại không thể để con người lãnh đạm được. Trái lại, nó gói ghém một vấn đề hệ trọng nhất của nhân loại, một vấn đề liên quan tới định mệnh của mỗi người chúng ta.

Những người đã đến với Đức Kitô, đã sống với Ngài và vì Ngài là những người cương quyết dành cho Ngài tất cả lòng trung thành không gì lay chuyển nổi. họ đã trung thành cho đến chết, chết dưới nanh vuốt ác thú, chết dưới lưỡi gươm bạo chúa, hay ngã quỵ dưới làn đạn xé thịt. Còn những kẻ không nhận Ngài thì ghét Ngài và nhất quyết không đội trời chung với những ai tự xưng là môn đệ của Ngài.

Và như thế, những sự bách hại không làm cho người tín hữu ngạc nhiên, vì họ nhớ tới lời tiên báo của Thầy mình: Họ đã ghét Thầy thì họ cũng sẽ ghét các con. Họ ghét chúng ta vì chúng ta thuộc về Thầy. Đức Kitô của Đức Kitô luôn bị phản đối, bị bách hại, không phải chỉ bằng gươm giáo súng đạn, mà còn bằng những sự phỉ báng và bài xích. Chính Đức Kitô ngày xưa cũng đã bị vu oan, tố cáo là tên phản quốc, phá luật, phạm đến Thiên Chúa và bạn với bọn tội lỗi và thu thuế. Vấn đề Đức Kitô mãi mãi là một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho chúng ta phải băn khoăn suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh. Tin hay không tin.

Từ thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dường như nghe thấy một thứ tiếng gọi, tuy âm thầm nhưng mãnh liệt, đòi chúng ta phải trả lời dứt khoát, như là bước vào một cuộc mạo hiểm sống chết, bởi vì chính Chúa cũng đã nói: Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Và như thế vấn đề Đức Kitô là một vấn đề luôn quan trực tiếp đến mỗi tâm hồn, và chỉ được giải quyết bằng một cuộc trao đổi của mỗi người trong tin yêu và phó thác.

 

10. Nhận diện Đức Kitô

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.

“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.

Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.

Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.

Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.

Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô?

2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào?

3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào?

4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ?

5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?

 

11. Hãy từ bỏ mình

“Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”

Hôm nay Chúa Giêsu cũng lại hỏi chúng ta: “Các con bảo Thầy là ai?” (Lc 9, 20).

Câu trả lời có thể là: Ngài là trái đất, là bầu trời xanh, là đại dương bao la, là bài ca, là cơn gió nhẹ ban mai, là thanh âm và hơi thở củ mọi loài sinh vật, là sự rực rỡ của mùa xuân, là nắng hè ấm áp, là những cơn mưa ngâu, là vẻ đẹp lúc sang thu, là cánh tuyết long lanh mùa đông, là ánh bình minh và hoàng hôn. Ngài là ánh mắt và nụ cười của trẻ thơ, là bàn tay êm ái của mẹ hiền, là cánh tay che chở của người cha, là tình huynh đệ của các anh chị em, là sự âu yếm của ông bà nội ngoại, là sự ồn ào tươi vui của bạn bè, là những lời thì thầm yêu đương, là sự ngây thơ của nụ hôn đầu tiên. Ngài là tiếng cầu cứu của trẻ thơ và người già bị bỏ rơi, là cơn đau sầu khổ của người bệnh, là bác sĩ, là niềm hy vọng, là người khách. Ngài là người bạn, là người yêu, là lối đi, là ánh sáng, là cuộc đời, là lời chúc lành, là bóng hình từ ái của người tu sĩ, là sự dịu ngọt linh thiêng trong bí tích Thánh Thể, là Đấng Cứu Độ của tôi. Và còn bao nhiêu trả lời khác nữa.

Thế nhưng, cảm nghiệm về “Chúa Giêsu là ai” trong cuộc đời của mỗi người rất khác nhau. Trong bài Phúc Âm ( Lc 9, 18-24) Chúa Giêsu hỏi các môn đệ “Thầy là ai” để giúp họ biết “họ là ai” trong tương quan giữa họ với Chúa Giêsu. Khi tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20). Phêrô cũng khẳng định ông là môn đệ của Ngài. Vì thế Chúa mới nói cho các môn đệ biết họ cũng phải đi theo con đường đau khổ giống như Ngài. “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,22-23). Đó là con đường bước theo Thầy Giêsu củangười môn đệ..

Trong bài đọc thứ hai Thánh Phaolô nhắc nhở dân Galát rằng: “Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3, 27). Mặc lấy Đức Kitô, hay mặc lấy chiếc áo trắng rửa tội là mang lấy thánh giá giống như Ngài. Đau khổ của thập giá tự bản chất là hình phạt của tội (St 3, 16-19). Nhưng qua Đức Kitô, đau khổ đã trở nên giá cứu chuộc nhân loại, thập giá trở thành Thánh Giá. Thánh Giá với tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh là một hình ảnh giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa của sự đau khổ. Chúng ta giữ thân xác khổ đâu của Chúa Giêsu trên thập giá để nhắc nhở chúng ta đừng quên rằng nhờ sự khổ đau của Chúa Giêsu mà chúng ta được ơn cứu rỗi và cùng chia sẻ sự Sống Lại với Ngài (Ga 1, 4; 1Ga 1, 7). Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên cây thập giá còn là một nhắc nhở về lời Ngài dạy bảo chúng ta hôm nay: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9, 23). Thập giá Chúa Giêsu đề cập chính là sự chọn lựa từ bỏ mình để dâng hiến hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa (Rm 6, 13; 12, 1). Từ bỏ những ý kiến, suy nghĩ riêng tư, cả cái tôi kiêu căng, tự ái, ích kỷ, và lòng ham hố danh lợi (Pl 2, 21). “Hãy từ bỏ mình” là con đường tu đức biến đổi đau khổ của thập giá trở thành ơn cứu độ của Thánh Giá mà Chúa Giêsu đã dạy và chết vì yêu thương chúng ta. “Hãy từ bỏ mình” là con đường dài cho đến hơi thở cuối cùng. Con đường đó bắt đầu xem ra có vẻ dễ dàng, nhưng diễn tiến và kết thúc lại vô cùng khó khăn. Để hoàn toàn từ bỏ chính mình như Đức Kitô đã từ bỏ, chúng ta phải học biết cách yêu thương như Ngài đã yêu (Ga 15, 12; Ep 2, 4-6).

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết từ bỏ mọi sự để dứt khoát bước theo Ngài đến cùng. Amen.

 

12. Đức Kitô là ai?

Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Phêrô, đã thay mặt cho nhóm mười hai, tuyên xưng:

– Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Tuy nhiên, biết Chúa Giêsu là Đức Kitô mà thôi chưa đủ, điều quan trọng đó là còn phải hiểu danh xưng ấy theo ý nghĩa nào?

Thực vậy, mặc dầu Phêrô đã tuyên xưng đức tin, nhưng liền sau đó, ông lại tỏ ra chẳng hiểu biết gì về sứ mạng của Ngài, bởi vì vào thời bấy giờ, người Do Thái có những quan niệm rất khác biệt nhau về Đức Kitô. Điều nay cũng dễ hiểu, bởi vì danh từ khó mà phản ảnh đúng về con người.

Chẳng hạn chúng ta có thể gọi một người là tổng thống hay chủ tịch, nhưng trong thực tế, đó có thể chỉ là một tên độc tài tàn bạo, chứ không phải là một nhà lãnh đạo như trong các thể chế dân chủ. Chính các tông đồ cũng đã hiểu lầm về sứ mạng của Đức Kitô. Các ông coi Ngài chỉ là một Đấng cứu tinh trong phạm vi trần tục, sẽ giải thoát dân tộc các ông thoát khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và rồi các ông sẽ được chia chác phần vinh quang, được ngồi bên phải và bên trái, nghĩa là được giữ những chức vụ to lớn trong vương quốc của Ngài.

Ngày nay cũng vậy, không phải tất cả mọi người tuyên xưng Đức Kitô đều hiểu theo cùng một nghĩa và nhất là hiểu đúng cái nghĩa mà Ngài muốn chúng ta phải hiểu. Thực vậy, có quá nhiều những nét huyền thoại đã được tô lên khuôn mặt đơn sơ và khiêm nhường của Đức Kitô, khiến cho nhiều người chẳng còn có thể nhận diện được Ngài nữa. Đức Kitô hôm nay có lẽ đã được tô vẽ bằng những nét vinh quang, siêu việt và cao cả. Ngài đã trở thành một vị thần minh ngự trên chín tầng trời, khác biệt với Đức Kitô của lịch sử.

Rồi chúng ta hiểu thế nào về danh từ “Con Thiên Chúa hằng sống?” Có phải theo nghĩa là thiên tử, là con trời kiểu Trung Hoa chăng? Hay theo kiểu thần thoại? Chúa Giêsu quả thật là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Thiên Chúa làm người. Nói cách khác, Thiên Chúa đã muốn tự mạc khải trong chính con người Đức Kitô. Ngoài con người ấy ra, không ai thấy được Thiên Chúa…

Dân Do Thái ngày xưa đã không tin Ngài là Đức Kitô, bởi vì họ không thể tin rằng Thiên Chúa lại hiện thân như một con người bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường: Con của một bác thợ mộc, sống một cuộc đời không có gì đặc biệt ở giữa họ.

Ngày nay trong thực tế, có lẽ nhiều người tín hữu cũng không thể nào tin yêu Đức Kitô, nếu họ gặp Ngài dưới hình dạng một con người tầm thường như vậy. Cứ nhìn các ảnh tượng người ta đã vẽ, đã tạc thì thấy rõ là ai ai cũng chỉ muốn tin nhận một Đức Kitô phi thường và siêu việt. Đức Kitô đối với nhiều người chỉ còn là Chúa, chứ không còn là người nữa.

Chúng ta tin vào một Đức Kitô toàn năng, một Đức Kitô chiến thắng, bởi vì chỉ có Đấng ấy mới có thể đáp ứng những đòi hỏi, những ước mơ không cùng của con người, bù trừ được những thiếu sót mà con người, tự sức riêng, không thể nào giải quyết nổi.

Thế nhưng, sự thật lại không phải là như vậy. Đức Kitô đến không phải để được đề cao, để được tôn vinh, nhưng đến để cùng đi, cùng sống với loài người, trong thân phận của một con người, của một tôi tớ, của một nô lệ. Với trí khôn, chúng ta không thể nào hiểu biết, nhưng với tình yêu, chúng ta sẽ dễ dàng tin nhận.

Phải, chỉ có những người biết yêu thương như Đức Kitô đã yêu thương, mới có thể nhận biết ngài là Đức Kitô của Thiên Chúa, bời vì Thiên Chúa là Tình yêu và con tim có những ly lẽ riêng của nó.

 

13. Thầy là ai?

(Trích dẫn từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Đám đông bảo Thầy là ai?

Nói chung đám đông coi Ngài là một ngôn sứ đã khuất, nhưng nay sống lại: một Gioan Tẩy Giả, một Êlia hay một ngôn sứ nào khác. Hiểu như thế đã là kính trọng lắm rồi, nhưng tiếc thay lại không đúng, vì Đức Giêsu chẳng phải là người của kiếp trước hiện về…

Hôm nay tôi cũng cần biết người quanh tôi nghĩ gì về Ngài: một nhà cách mạng xã hội? Một nhà cải cách tôn giáo? một người đã dám sống và đã chịu chết, để khai sinh một xã hội bình đẳng và huynh đệ đại đồng?

Có cái nhìn còn khiếm khuyết, nhưng đã là một con đường rộng mở về chân lý.

Các con bảo Thầy là ai? Phêrô trả lời đúng: Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa.

Bản thân tôi cũng phải trả lời câu hỏi trên, sau khi đã theo Chúa một thời gian dài.

Đức Giêsu là một mầu nhiệm không ngừng mở ra và lớn mãi. Ngài không thay đổi, nhưng sau mỗi biến cố, tôi lại khám phá ra những nét mới nơi con người Ngài.

Ngài vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, nhưng Ngài thường đến với tôi dưới nhiều dáng dấp.

Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi: “Con bảo Thầy là ai?”

Càng lúc câu trả lời càng được thanh luyện.

Tôi sẽ sống dựa trên câu trả lời của mình.

Đức Kitô bảo mình là ai?

Ngài thường định nghĩa mình bằng những hình ảnh cụ thể. Tôi là Cửa (Ga 10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46). Tôi là Đường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Bánh (6,51).

Định nghĩa nào cũng gắn chặt Ngài với con người.

Cửa để chiên ra vào. Mục Tử để chiên được sống. Ánh Sáng để ta dễ bước đi, Đường để đưa ta đến với Cha. Thân Nho để các cành sinh trái, Bánh để nuôi nhân loại.

Đức Kitô sống cho con người và sống với con người. Ngài nhận mình là Chúa, là Thầy, là Bạn, là Anh Trưởng của mọi người chúng ta.

Ngài nhận mình là Đức Kitô dân Do thái mong đợi.

Nhưng Ngài không giấu ta thân phận của Ngài: phải vượt qua khổ đau và cái chết mới được vào cõi sống.

Đức Kitô bảo tôi là ai?

Kitô hữu là người vác thập giá theo sau Đấng vác thập giá. Chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã đi.

Thân phận Kitô hữu gắn liền với thân phận Thầy mình: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng sống với Ngài” (2Tm2,11).

Mầu nhiệm Vượt Qua nằm ở trung tâm đời sống Kitô hữu. Vượt qua lớn nhất là vượt qua chính mình mỗi ngày.

Từ bỏ chính mình là để có thể sống cho tha nhân.

Mất mạng sống mình là để tín trung với Chúa.

Ước gì tôi là tôi hơn, khi tôi ra khỏi tôi.

Gợi Ý Chia Sẻ

“Gạt Đức Kitô ra khỏi đời tôi, mọi sự sẽ sụp đổ, giống như một thân xác bị người ta lấy đi bộ xương, quả tim và cái đầu.” Bạn nghĩ gì về câu nói trên của Cha Phêrô Arrupe?

Ở Ấn Độ, nhiều người thích coi Đức Giêsu như một nhà Đạo Sư (Guru). Theo ý bạn, ở Việt Nam, khuôn mặt nào của Đức Giêsu dễ được chấp nhận hơn cả?

Cầu Nguyện

Lạy Thầy Giêsu,

Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy và Cha.

Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc.

Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.

Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy.

Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ, rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá.

Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.

 

14. Dấu chứng tình yêu – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Cô Ann Thomas kể lại câu chuyện sau đây: Hôm đó, cô và Betty ghé vào một sạp bán đồ cũ. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi: – Có đồ gì đáng giá không? Ann trả lời: – Không, toàn là đồ năm vố thôi.

Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thập giá cũ han gỉ và nói: – Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.

Cô bạn của Ann đem về nhà lau chùi và đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quý.

Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thập giá lên ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé òa lên khóc. Betty liền hỏi: – Con sao vậy? Bobby nói: – Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.

Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quý, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Đức Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.

Tin Mừng hôm nay kể, Đức Giêsu bất thần hỏi các môn đệ: “Đám đông nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. Nhưng Chúa lại muốn biết suy nghĩ của chính họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và chỉ một mình Phêrô mau mắn, đầy xác tín thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9,18-20)

Phêrô trả lời quá chính xác, các môn đệ khác thở phào nhẹ nhõm vì các ông còn mơ hồ không biết Thầy là ai. Và Đức Giêsu mừng thầm vì công phu dạy dỗ mấy năm trời cũng không đến nỗi đổ sông đổ biển.

Nhưng Đức Giêsu phải xác định ngay rằng Đấng Kitô đây không phải là vị vua chiến thắng muôn nước, bá chủ muôn dân, khôi phục nước Israel, giải phóng nô lệ Rôma, như họ vẫn nghĩ. “Đấng Kitô của Thiên Chúa” sẽ là vị vua chiến thắng tử thần, chinh phục các tâm hồn, khôi phục quyền làm con Chúa, và giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, quỷ ma.

Tuy nhiên, con đường đi đến chiến thắng lại là con đường đau khổ, con đường thập giá: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9,22). Tất cả những ai muốn làm môn đệ Người, không thể đi con đường nào khác: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23)

Thập giá tuy là một khí cụ độc ác và ô nhục mà con người đã nghĩ ra để hành hạ kẻ khác, nhưng Đức Giêsu lại biến nó thành dấu chứng của tình yêu: Tình yêu vâng phục thánh ý Cha và tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Khi nhìn lên thập giá, chúng ta không ngừng nghe vang vọng lời yêu thương ấy. Chính tình yêu đã biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, và khổ đau thành nỗi hân hoan.

Chúa đã chết thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta không xứng đáng ơn cao cả ấy, tại sao chúng ta lại không dám chết cho chính mình, từ bỏ tội lỗi để bước theo chân Người?

Chúa đã sẵn lòng chịu mọi đau khổ cực hình thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta ngàn lần bất xứng, tại sao chúng ta lại từ chối hy sinh cho anh em, đang cần sự nâng đỡ ủi an?

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”, xin ban cho chúng con ơn can đảm, để chúng con luôn sẵn lòng bỏ mình cho tình yêu.

Xin cho chúng con tìm được niềm vui khi đón nhận mọi gian lao thử thách Chúa gởi đến trên đường đời. Amen.

 

15. “Lúc này đây, theo con, Ta là ai?”

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’ – André Sève)

“Còn các con nghĩ Thầy là ai?”

Đây là câu hỏi kiểm tra quan hệ giữa chúng ta với Chúa Giêsu. Một đàng, mầu nhiệm nhân tính của Ngài lớn lao và làm hoang mang đến thế, đàng khác chúng ta tiến triển đến nỗi điều mà chúng ta trở nên trong tương quan với Ngài không ngừng phải được xác định lại. Những ngày này tôi đang nghiên cứu về một tác phẩm mới xuất bản về Kitô học và những tư tưởng mới làm giao động những tư tưởng cũ của tôi. Đột nhiên xuất hiện trước tôi khuôn mặt mà Chúa Giêsu phải có khi Ngài đã từng hỏi các môn đệ của Ngài: “Giờ đây, đối với con, Ta là ai?”

Luca xác định rằng Chúa Giêsu đi ra “cầu nguyện ở một nơi vắng”. Luôn luôn Ngài tự chuẩn bị như thế khi đến một giai đoạn mấu chốt trong cuộc đời của Ngài.

Trước khi bước vào những ngày khổ nạn, Ngài muốn kiểm chứng tình hình quan hệ giữa Ngài với các môn đệ. Nếu Ngài chỉ là một Luật sĩ, chính giáo huấn của Ngài là quan trọng nhất. Nhưng bởi vì tất cả những gì Ngài là, người ta chỉ có thể lắng nghe và theo Ngài nếu người ta tiến về chính con người của Ngài, về mầu nhiệm của Ngài. Câu “Theo các con, Thầy là ai?” Không phải là câu hỏi tò mò và tình cảm của một ông Thầy, đây là một sự kiểm chứng chủ yếu: nếu các con không cảm thấy Ta là ai, các con sẽ không đi vào được trong quan hệ tuyệt đối duy nhất nối kết các con với Ta.

Tuy nhiên thường gặp sai lầm này: chúng ta đọc Tin Mừng và cố gắng sống Tin Mừng mà không kiểm chứng đủ các ý tưởng của chúng ta về Chúa Giêsu. Phải có thể bắt đầu mỗi khi nghe hoặc đọc Tin Mừng –và hơn nữa là mỗi giai đoạn quan trọng của cuộc sống tín hữu- bằng cách tự đặt mình dưới câu hỏi: “Theo con, vào lúc này đây, Ta là ai?”.

Thế là chúng ta sẽ tiến bộ theo hai cách: trong việc nhận biết Chúa Giêsu và trong xác tín rằng chúng ta chỉ sống điều gì đó thực sự với Ngài (lắng nghe, yêu mến và đi theo Ngài) khi miệt mài tự đặt mình trước mầu nhiệm dưới đất và trên trời.

Mỗi lần chúng ta nắm vững một tước hiệu, Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời, Thiên Chúa và Con Người, Đấng Giải Phóng và có thể là Ômêga của Teilhard de Chardin, chúng ta bị cám dỗ tin rằng chúng ta nắm vững mầu nhiệm. Nhưng không, quan hệ với Chúa Giêsu là một cuộc tìm kiếm vĩnh viễn có hai căn tính: “Giờ đây, ta là ai? Và giờ đây, đối với ta, Chúa Giêsu là ai?”

Đàng khác đây là chân lý của mọi quan hệ: quan hệ này là một sự điều chỉnh không ngừng từ hai phía bởi vì hai phía đều thay đổi. Đây là sự thường tình mà chúng ta rất thường hay quên trong việc thực hành các quan hệ thông thường với nhau, và hơn thế nữa với Chúa Kitô.

– Nhưng Chúa Kitô không thay đổi phải không?

– Có chứ, dưới hai khía cạnh. Trước tiên, Ngài luôn luôn được biết rõ hơn. Các nhà chú giải, các nhà thần học, các nhà thần bí và Dân Chúa được Thánh Linh tác động, không ngừng tìm hiểu mầu nhiệm của Ngài.

Đó là mầu nhiệm của một Đấng hằng sống! Kết quả của sự Nhập Thể và Sống Lại, điều mà Chúa Kitô sống với con người từ thời đại này tới thời đại khác, làm cho Ngài thành một Chúa Kitô đang thay đổi, một Chúa Kitô “hoàn toàn” hơn, trong khi chờ đợi ngày Ngài sẽ có được toàn bộ tầm vóc của Ngài. Thật sự chúng ta chỉ có thể lui tới với Ngài bằng cách để cho mình được tác động do câu hỏi luôn luôn thời sự này của Ngài: “Lúc này đây, theo con và theo thế giới trong đó con đang sống và đang ảnh hưởng tới con, Ta là ai?”.

 

16. Chỉ có Mầu nhiệm Vượt Qua mới quan trọng

(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’ – Charles E. Miller)

Ngày thứ sáu Tuần Thánh, người ta lũ lượt kéo nhau đến nhà thờ; đây là một việc làm chính đáng. Họ biết cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá quan trọng đối với đạo chúng ta đến mức nào. Rồi đến Chúa Nhật Phục Sinh, con số này tăng lên rất nhiều, chật cả nhà thờ; và đây là một việc làm chính đáng. Người ta nhận ra việc cử hành Chúa sống lại mang một ý nghĩa đặc biệt. Nhưng rồi những ai đi lễ thường xuyên ghi nhận số giáo dân dự lễ giảm dần sau ngày lễ Phục Sinh.

Những người đi lễ đều đặn thường dễ có xu hướng tự hỏi, “Thế trong những ngày còn lại trong năm số giáo dân kia ở đâu?”. Chúng ta phải trả quyền phán xét lại cho Thiên Chúa, đồng thời nên suy nghĩ theo bản năng nhận thức của mình rằng mọi Chúa Nhật đều quan trọng đối với chúng ta là những người Công Giáo, và Thánh lễ phải là một phần không thể tách rời của ngày Chúa Nhật để chúng ta có thể cử hành nghi thức cứu độ của mình. Thật vậy, Giáo Hội dạy rằng Chúa Nhật là ngày thánh thiêng nhất trong mọi ngày theo một truyền thống từ thời các Thánh Tông Đồ. Người Công Giáo không đi lễ Chúa Nhật cũng giống như các thành viên trong một ban nhạc mà không có đàn. Trong cả hai nố, không ai có thể đạt được mục đích của mình. Và mục đích của chúng ta trong ngày Chúa Nhật là cử hành các biến cố dẫn đến ơn cứu độ của chúng ta.

Các biến cố này –cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu– nối nhau diễn ra trong ba ngày, song ngày nay chúng kết hợp lại thành một thực tại duy nhất mà Giáo Hội gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua. Đây là toàn bộ mục đích của việc Con Thiên Chúa giáng trần. Từ thuở đời đời, Chúa Cha đã xác định là tội lỗi và cái chết sẽ không ngăn trở được việc thực thi kế hoạch của Ngài, và Chúa Con quả cứu chúng ta thoát khỏi tội lỗi và cái chết nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người.

Cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu là một phần ăn sâu vào suy nghĩ của Chúa Cha đến nỗi trong thời Cựu Ước, rất lâu trước khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, đã có những dấu cho thấy những gì sẽ xẩy đến. Là người phát ngôn của Thiên Chúa, Zacaria đã nói tiên tri về một nhân vật bí ẩn mà cư dân Giêrusalem sẽ khóc than như các bậc cha mẹ than khóc cái chết của đứa con một. Ông viết: “Chúng sẽ ngước nhìn lên… Đấng chúng đã đâm thâu”. Chúng ta biết Đấng ấy là Ai: là Con Một của Thiên Chúa, đã chịu chết trên cây thập tự, và cạnh sườn Người đã bị lưỡi đòng đâm thâu.

Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu trong Phúc Âm như đang trên một chuyến hành trình lên Giêrusalem. Người luôn hướng mặt về Thành Thánh, bởi lẽ ngay tại nơi đây, lời tiên báo mà chính Người đã ba lần thốt ra phải được ứng nghiệm: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều… bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”.

Chúng ta công nhận ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu qua lời tung hô Thánh Thể: “Chịu chết, Người tiêu diệt cái chết của chúng con, và sống lại, Người phục hồi sự sống cho chúng con”. Lúc một tên lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Đức Giêsu, “tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34). Truyền thống cổ xưa của Giáo Hội nhận ra nước ấy biểu trưng cho Bí Tích Rửa Tội và máu ấy biểu trưng cho Bí Tích Thánh Thể. Hôm nay, Thánh Phaolô nhắc nhở rằng lúc chịu phép Rửa, chúng ta “đều mặc lấy Đức Kitô”; thật vậy, ta lãnh nhận một chiếc áo trắng, nói lên mình đã được mặc lấy Đức Kitô, đã bắt đầu một cuộc sống mới –một cuộc sống mà Mầu Nhiệm Vượt Qua đã giành lại cho chúng ta và giờ đây được Mình Thánh Máu Thánh Chúa nuôi dưỡng.

Qua những lời tung hô khác lúc lên rước lễ, chúng ta thưa, “Khi ăn tấm bánh này và uống chén máu này, lạy Chúa Giêsu, chúng con loan truyền Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến trong vinh quang”. Mỗi Chúa Nhật, chúng ta cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua, một thực tại đã luôn chiếm vị thế hàng đầu trong tâm trí của Thiên Chúa từ trước muôn đời. Chúng ta đến dự lễ mọi ngày Chúa Nhật là để cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua.

 

17. Các con bảo Thầy là ai? – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)

Lời tiên báo về cái chết của Ngài được Chúa Giêsu đưa ra lần đầu tiên ngay sau khi nghe lời xưng nhận phi thường của ông Phêrô. Đây là một trong những giây phút hệ trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Ngài hỏi câu đó khi Ngài đã nhất định đi lên Giêrusalem. Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi Ngài ở đó, và câu trả lời cho câu hỏi của Ngài là rất mực quan trọng. Điều Ngài đã biết đó chính là Ngài đang tiến đến cây thập giá để chết. Còn điều Ngài muốn biết trước khi Ngài ra đi là đã có ai thực sự khám phá Ngài là Đấng nào chưa? Câu trả lời đúng sẽ thay đổi tất cả. Nếu không có câu trả lời, mà chỉ có hiểu lầm, thì điều này có nghĩa là công việc của Ngài đã uổng công. Nếu có một nhận thức nào đó, dầu rất sơ sài, thì điều đó có nghĩa là Ngài đã thắp lên một ngọn đuốc trong tâm hồn loài người mà thời gian sẽ không bao giờ tắt được.

Ngài bắt đầu đưa ra một câu hỏi: “Dư luận quần chúng nói Thầy là ai?” Câu trả lời của họ cũng không khác gì câu trả lời của người đời ngày nay: người này bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác cho là Êlia, kẻ khác nữa cho là một tiên tri đời xưa sống lại: “Có nghĩa là một nhà cải cách, một nhà đại truyền giáo, một sứ giả của Thiên Chúa”. Những lời phỏng đoán đó không làm cho Chúa Giêsu hài lòng, rồi quay về phía các môn đệ: “Còn về phần các ngươi thì nói Ta là ai?” Lòng Chúa Giêsu hân hoan biết bao khi khám phá bất ngờ của Phêrô tràn ra môi miệng ông: “Thầy là Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa”. Khi nghe điều đó Ngài biết mình đã không thất bại.

Đây là một xác định vĩ đại về Đấng Kitô mà cả thế giới ngày nay vẫn được nghe, nhưng lúc ấy Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ: “Đừng nói điều ấy với ai”. Không những các môn đệ phải khám phá ra sự kiện đó, mà các ông còn phải khám phá ra ý nghĩa của sự kiện đó nữa. Các ông đã lớn lên trong một nền tư tưởng dạy rằng, phải trông đợi từ Thiên Chúa một vị vua chiến thắng sẽ dẫn dắt họ đến địa vị bá chủ thế giới. Cặp mắt của Phêrô hẳn đã sáng lên một niềm xúc động khi ông thốt lên lời đó. Nhưng Chúa Giêsu còn phải dạy cho các ông biết rằng Chúa Cứu Thế đã đến để chết trên cây thập giá. Ngài phải làm đảo lộn tư tưởng của các ông về Thiên Chúa và ý muốn của Ngài, và từ giờ phút này, Ngài sẽ để tâm làm việc đó. Các ông đã khám phá ra Ngài là ai, bây giờ các ông còn phải khám phá thêm ý nghĩa của sự khám phá đó. Chính các môn đệ phải biết ý nghĩa về sự chết và sống lại của Chúa trước đã. Ngày nay không một người nào có thể làm chứng về Đấng Kitô mà lại không biết ý nghĩa của sự chết chuộc tội và quyền năng của sự sống lại của Ngài. Rồi Chúa Giêsu cho các ông biết sự chết mà Ngài sắp phải chịu là rất cần, và quả quyết với họ rằng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại.

Có hai điều cần phải biết trong đoạn lời Chúa này:

. Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách hỏi người ta đang nói gì về Ngài, rồi đột nhiên hướng câu hỏi thẳng vào nhóm môn đệ: “Các ngươi nói Ta là ai?”.

Không bao giờ được cho là đủ nếu chỉ biết những điều người ta nói về Chúa Giêsu. Một người có thể trúng tuyển các kỳ thi về những lời nói và tư tưởng cổ kim của thiên hạ về Chúa Giêsu, người ấy có thể đọc hết các sách Kitô học, được viết bằng mọi thứ tiếng trên thế giới, nhưng người ấy vẫn chưa phải là Kitô hữu. Chúa Giêsu phải là một khám phá riêng của cá nhân chúng ta. Kitô giáo không phải là một câu chuyện lưu truyền. Đối với mỗi người, Chúa Giêsu không đến với câu hỏi rằng: “Ngươi có thể nói cho ta những điều kẻ khác đã nói và biết về Ta chăng?”. Nhưng Ngài hỏi: “Ngươi nói Ta là ai?” Phaolô đã không nói: “Tôi biết điều tôi đã tin”, nhưng ông nói: “Tôi biết Đấng tôi tin”. Kitô giáo không có nghĩa là đọc một bản tín điều nhưng là biết một Đấng nào.

Trong đoạn này chúng ta nghe tiếng “phải” từ miệng Chúa Giêsu, Ngài phán: “Ta phải đi lên thành Giêrusalem Chịu chết”.

Thật rất ý nghĩa khi chúng ta để ý đến những tiếng “phải” Chúa nói trong Phúc âm Luca. Ngài nói: “Há chẳng biết con phải lo việc của Cha con sao?” “Ta cũng phải loan báo Tin Mừng cho các thành khác”; “nhưng ngày nay, ngày mai và ngày kia Ta phải đi”. Ngài thường nói đi nói lại với các môn đệ rằng, Ngài phải đi đón cây thập giá của mình. Chúa Giêsu là người hiểu rõ mình có một định mệnh phải thi hành. Ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn của Ngài. Ngài không có mục đích nào khác với thế gian này ngoài việc làm trọn điều Thiên Chúa đã sai Ngài, là Kitô hữu, cũng như Chúa của mình, là Người hằng vâng lời.

Định mệnh của Ngài cũng là định mệnh của những kẻ là môn đệ của Ngài. Tại đây Chúa đặt ra các điều kiện cho những ai muốn là môn đệ của Ngài.

Người đó phải từ chối mình. Điều đó có nghĩa gì?

Một học giả đã giải thích như sau: Phêrô đã một lần từ chối Chúa khi ông nói về Chúa Giêsu rằng: “Tôi không biết người đó”. Chúng ta từ bỏ mình là nói rằng: “Tôi không biết tôi” tức là không biết chính sự hiện hữu của mình, coi mình như không có vậy. Chúng ta thường tự đặt mình lên cao dường như mình là quan trọng nhất trên thế gian này. Nếu muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải tự xóa mình đi, quên chính bản thân của mình.

. Người đó phải vác thập giá của mình:

Cây thập giá không phải chỉ là biểu hiện sự đau đớn vì sỉ nhục, và còn là dụng cụ của sự chết. Chúa Giêsu biết rõ thế nào là đóng đinh vào thập giá. Khi Ngài còn là một cậu bé mười một tuổi, thì Giuđa, người xứ Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Lamã. Ông đã đánh phá kho vũ khí của vua tại Sepphoris, chỉ cách Nazareth 6,4 cây số. Lamã trả thù tức khắc, Sepphoris bị san thành bình địa, dân chúng bị bắt làm nô lệ, hai ngàn loạn quân bị đóng đinh vào thập giá dựng dọc theo hai bên đường cái để làm lời cảnh cáo ghê sợ cho kẻ nào muốn nổi loạn. Vác thập gía mình có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành với Chúa, là chúng ta sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm cho chúng ta vì chúng ta thành tâm đi theo Chúa Giêsu.

. Người đó phải phân phát sự sống mình chứ không tích trữ nó:

Toàn bộ các tiêu chuẩn trần gian phải đổi thay. Các câu hỏi không phải là “Tôi có thể thâu tích bao nhiêu?”, nhưng là “Tôi có thể phân phát bao nhiêu”. Không phải việc gì là điều an toàn để làm, nhưng là việc nào là điều phải lẽ để làm, không phải cái gì là tối thiểu được phép làm, nhưng là “cái gì là điều tối đa có thể làm”. Kitô hữu phải nhận thức rằng đời sống của mình là cho đi, không phải giữ lấy cho mình, nhưng là đem phân phát đời mình cho kẻ khác, không phải là tiết kiệm năng lực, nhưng là tiêu hao năng lực cho Chúa và tha nhân.

Thật ra sự chọn lựa này, nói cho cùng chỉ vì: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, vì tôi coi tất cả như rác để được Đức Kitô và được kết hiệp với Người”.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết ơn trở thành những chứng nhân hữu hiệu của Ngài giữa anh chị em xung quanh, chứng nhân trung thành với đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận và giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

 

18. Tuyên rao Đức Kitô chịu đau khổ

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Tín đồ tôn giáo nào cũng hãnh diện và tôn sùng các vị thần mình của tôn giáo mình cả. Đay là điều rất thường tình, đơn giản vì các vị thần mình ấy được tin nhận là có địa vị chí tôn, có uy quyền mạnh mẽ, có hào quang chói ngời…

Tuy nhiên, Đức Giêsu Kitô, Đấng sáng lập Kitô giáo thì đặc biệt hơn: Ngài cũng uy quyền, vinh quang và cao cả, nhưng Ngài còn mang vào mình thân phận yếu hèn của con người chúng ta; hơn nữa, Ngài còn chịu đau khổ với chúng ta và “vì chúng ta để cứu độ chúng ta”.

Do đó, một mặt, chúng ta được mời gọi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Thiên sai, Đấng Cứu Tinh vinh quang uy quyền. Mặt khác, chúng ta cũng được mời gọi tuyên rao Ngài là Tôi Tớ của Thiên Chúa Giavê, Vị Tôi Tớ đã phải kinh qua nhiều đau khổ và sự chết. Đau khổ vì bị người đời khinh khi, đau khổ vì bị chính những môn đệ thân tín phản bội và chối từ, đau khổ vì bị giới chức đạo đời Dothái loại trừ và cho đóng đinh vào thập tự giá.

Nếu ta chỉ tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế của một Thiên Chúa vinh quang quyền uy, nhưng lại không xưng tụng Ngài là Tôi Tớ của Thiên Chúa Giavê, Đấng đã chết nhục nhã trên cậy thập giá, thì quả là một thiếu sót.

Tuyên xưng một Đức Kitô là Đấng Cứu Thế uy quyền và tuyên rao một Đức Kitô chịu đau khổ, chịu chết trên cây Thập giá, chúng ta cũng được mời gọi tuyên nhận những đau khổ, thử thách như là những thập giá của phận người: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo.” Đón nhận những đau khổ, những nghịch cảnh trong đời để được liên kết với mầu nhiệm thập giá của Đức Kitô và được nên giống như Ngài.

Hôm qua, một người quen ở Sài Gòn gọi điện nói: “Cha ơi, xin cha cầu nguyện cho con và gia đình con với. Con và gia đình con đang gặp chuyện đau khổ quá”…

Cách đây một tháng, người em rể của chị đi làm bị mất xe, sau đó mấy ngày lại bị tai nạn. Nay thì chuyện liên quan đến hai đứa cháu gái ruột. Cô chị mới 17 tuổi, học sinh lớp 11, có thai mà cả gia đình không ai biết. Cho đến khi sinh rớt trong nhà vệ sinh và được đưa đi bệnh viện cấp cứu thì gia đình bố mẹ, cô dì mới tá hoả. Chưa hết, ngay sau khi cô chị sinh thì phát hiện thêm cô em mới 15 tuổi cũng đang có thai 2 tháng. Đúng là đại hoạ. Hoạ vô đơn chí!

Chị ta vừa nói chuyện điện thoại vừa khóc: “Cha ơi, sao Chúa thử thách con nhiều thế, sao Chúa gửi thánh giá đến cho con và gia đình con nhiều thế? Con và gia đình con đã làm gì nên tội.”

Được biết, chị là một người rất tốt lành, rất đạo đức, đã có thâm niên phục vụ nhà bếp cho một giáo xứ lớn.

Tôi an ủi chị rằng có khi Chúa thương ai thì Chúa gửi thánh giá, đau khổ tới. Cuộc đời của nhiều vị thánh minh chứng cho điều này. Hầu như không có vị thánh nào mà không phải trải qua nhiều đau khổ. Mà các thánh là những người được Chúa yêu thương nhiều. Chị được Chúa thương nhiều lắm đấy.

Chị bảo:

– Chúa thương gì kỳ quá vậy cha.

– Đúng là có khi Chúa thương theo kiểu hơi kỳ cục, cũng giống như cha mẹ thương con, có khi cho roi cho vọt. Có điều thường khi gởi đau khổ, gửi thánh giá tới, thì liền sau đó Chúa sẽ gửi những viên thuốc bổ tới. Chúa sẽ gửi đến những viên thuốc bổ cho chị để tăng thêm sức cho chị, hầu chị đủ sức vác lấy những thánh giá ấy. Chị hãy chờ xem và nhận ra những viên thuốc bổ ngọt ngào mà Chúa sẽ gửi đến.

Thập giá khổ đau luôn gắn liền với thân phận của con người. Chúa Giêsu dẫu là Thiên Chúa vinh quang, quy quyền, nhưng một khi chấp nhận làm người, Ngài cũng chấp nhận mang lấy những hệ luỵ của kiếp người, tức là đau khổ và sự chết. Có điều Ngài đã hoá giải đau khổ và thập giá bằng chính Mầu nhiệm Phục sinh của mình, mầu nhiệm đem lại ơn cứu độ trào tràn.

Những đau khổ, những thử thách trong đời có giá trị giúp thanh luyện chúng ta, giống như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy. Và trong ý nghĩa đó, thử thách đau khổ sẽ trở thành những hạt mầm chất chứa nguồn ơn cứu độ khi chúng ta biết liên kết với những đau khổ của Đức Kitô.

Xin cho mỗi người chúng ta một khi tuyên rao về Đức Kitô và Mầu nhiệm Thập Giá của Ngài, chúng cũng biết sẵn sàng đón nhận những nghịch cảnh, những đau thương trong đời, không phải với thái độ bi quan, chán chường, nhưng với thái độ hân hoan vì được nên giống Chúa Kitô hơn và được hiệp thông phần mình trong mầu nhiệm cứu độ của Ngài. Amen.

 

19. Đáng lý không thể có được… – Achille Degeest.

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là Người – Chúa, Đấng thật sự làm người, muốn hoàn toàn đi vào kinh nghiệm nhân loại chúng ta –ngoại trừ tội lỗi- một kinh nghiệm gồm cả tử vong. Ý nghĩ về sự chết đặt ra cho nhân tính Chúa khi Người nhận thức rằng sự thù nghịch của giới lãnh đạo và sự chống đối của dân chúng đưa Người đến chỗ chết. Đức Giêsu – Người chấp nhận rằng công cuộc cứu độ gồm cả giai đoạn chết. Tuy nhiên trong tâm hồn Đức Giêsu ý nghĩ về sự chết luôn luôn đi kèm theo ý nghĩ về sự sống lại. Chúa không nghĩ rằng sự chết huỷ diệt bản thể Người. Chúa đi đến cái chết, không phải vì tất nhiên phải chết, nhưng vì yêu thương và để đạt tới sự sống. Chúa tự do hiến mạng. Nhờ Chúa, chúng ta dễ dàng chấp nhận sự chết. Đối với chúng ta, sự chết tất nhiên phải đến, nhưng nhờ Đức Giêsu Kitô chúng ta có thể biến đổi việc tất nhiên ấy thành một hành vi yêu thương tự nguyện. Ở ngưỡng cửa sự chết của Người, Chúa đã nói: Lạy Cha, xin theo ý Cha! Chính chúng ta cũng có thể nói lên câu ấy. Quyền tự do tối thượng của Chúa len lỏi vào trong định mệnh cuối cùng của chúng ta, và giống Chúa, với Chúa, chúng ta có thể biến đổi sự vâng theo thánh ý Thiên Chúa thành một hành vi yêu thương. Phải chăng đó là phần nào ý nghĩa lời Chúa khuyến khích chúng ta hãy theo chân Người? Chúng ta suy niệm về một bí nhiệm, và một lời gọi.

1) Bí nhiệm là thế này. Sự thương khó và cái chết của Đức Giêsu là một điều đáng lý không bao giờ có được. Đức Giêsu, con người hoàn toàn, tuyệt đối vô tội, không bị chi phối bởi bất cứ quy luật tất nhiên nào, thế mà Chúa chịu đau khổ và chịu chết. Sau khi sống lại, Chúa sẽ nói: Các ngươi không hiểu rằng Đức Kitô phải chịu khổ nạn ư? Khi loan báo cuộc Thương Khó, Chúa nói: Con Người phải chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại. Có lẽ ở đây chúng ta đứng trước một vực thẳm, khoa tâm lý học nhân loại chưa thám hiểm tới. Chỉ có sự hy sinh mới thuyết phục được người ta, và cũng còn tuỳ trường hợp. Giêrusalem đã giết các ngôn sứ rồi sau mới tôn kính các ngài. Con người giết Thiên Chúa rồi sau mới nhìn nhận Người là nguồn sống… Chúng ta nghĩ rằng không thể nào như thế được. Đức Giêsu nói rằng vụ bội bạc ghê gớm ấy phải xảy ra. Một bí nhiệm không ai hiểu được.

2) Chúa mời gọi: Ai muốn đi theo Ta… Một phần nhân loại cố gắng theo Đức Giêsu. Xuyên qua rất nhiều vụ yếu đuối, thất bại. Giáo Hội dẫu sao gần một phần lớn nhân loại tiến bước theo chân Đức Giêsu. Về mặt cơ bản, Giáo Hội có một ước vọng giống ước vọng của Chúa, là cứu vớt con người. Còn gì cao quý hơn, đáng trọng hơn? Thế mà, đối với Giáo Hội cũng xảy ra một sự đáng lẽ không thể có được: Giáo Hội không được hiểu biết, bị bách hại, “bị đóng đinh vào thập giá”. Giả sử chúng ta hỏi Chúa, có lẽ Người trả lời: Chúng con không hiểu rằng tất nhiên phải như vậy ư? Đây cũng là một bí nhiệm. Nhưng (chữ nhưng ở đây quan trọng vô cùng) Đức Kitô đã sống lại, và Giáo Hội luôn luôn sống lại. Bí nhiệm là nguồn sống, thật vậy.

 

20. Mầu nhiệm Vượt Qua là những vấn đề gì?

(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’ – Charles E. Miller)

Ngày thứ Sáu Tuần thánh người ta thường tuốn đến nhà thờ thật đông. Họ biết rằng những ngày đó là những ngày quan trọng trong đạo của chúng ta, ngày đó kỷ niệm sự chết của Chúa Giêsu trên thánh giá. Vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, một đám đông lớn chật ních tất cả các nhà thờ cũng như thế. Dân chúng biết rằng sự cử hành Phục Sinh của Chúa có một ý nghĩa đặc biệt. Nhưng những người đi nhà thờ thường xuyên nhận thấy rằng sau lễ Phục Sinh người ta đi lễ dần dần giảm sút.

Những người đi nhà thờ thường xuyên sẽ bị cám dỗ tự hỏi: “Thời gian còn lại của năm họ đi đâu?”. Hãy để quyền xét đoán cho Thiên Chúa bây giờ chúng ta sẽ suy nghĩ về sự nhận biết ngày Chúa Nhật thì quan trọng đối với chúng ta là những người Công giáo, khi Thánh Lễ là một phần đặc biệt của ngày Chúa Nhật mà chúng ta mừng sự cứu độ của chúng ta. Quả thật Giáo Hội đã dạy rằng ngày Chúa Nhật là ngày đầu tiên trong một tuần, điều này có trong truyền thống đã truyền lại từ các tông đồ. Đối với những người Công giáo, ngày Chúa Nhật không có Thánh Lễ thì giống như những thành viên của một hội kèn không có nhạc cụ thì không thể làm viên mãn mục đích của họ được. Mục đích của chúng ta vào ngày Chúa Nhật là cử hành biến cố cứu độ của chúng ta.

Biến cố này là sự chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu đã được trải dài trong một thời ký ba ngày, nhưng bây giờ chúng là một thực tại mà Giáo Hội gọi là mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Vượt Qua là toàn thể mục đích của việc Con Thiên Chúa vào trong thế gian. Từ đời đời Cha đã xác quyết rằng tội lỗi và sự chết sẽ không cản trở dự định của Ngài, là Người Con duy nhất của Ngài cứu độ chúng ta thoát khỏi tội lỗi và sự chết qua mầu nhiệm Vượt Qua của Người.

Sự chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là một phần suy nghĩ của Cha trên trời đã có trong Cựu Ước, rất lâu trước khi Chúa Giêsu sinh ra đã có những dấu hiệu những gì sẽ xảy đến. Giacaria như là một người phát ngôn của Thiên Chúa đã tiên báo về một Con Người mầu nhiệm mà tự con người đó dân chúng sẽ than khóc như cha mẹ than khóc trên cái chết của người con độc nhất của mình. Ông nói rằng: “Dân chúng sẽ nhìn lên Người, Đấng mà họ đã đâm thâu qua”. Chúng ta biết rằng Đấng ấy là con người nào. Đó là Đức Giêsu người Con độc nhất của Thiên Chúa, Đấng đã chết trên thánh giá và đã bị ngọn giáo đâm xuyên qua cạnh sườn.

Thánh Luca đã giới thiệu Chúa Giêsu trong Phúc Âm như là một hành trình đi lên Giêrusalem. Gương mặt của Ngài luôn luôn hướng về thành thánh kể từ khi những lời tiên tri của chính Chúa Giêsu đã thốt lên ít nhất ba lần sẽ được ứng nghiệm: “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Sẽ chết và sẽ sống lại vào ngày thứ ba”.

Chúng ta nhận biết ý nghĩa về cái chết của Chúa Giêsu trong lời tuyên xưng Thánh Thể của chúng ta: “Bởi sự chết Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta và bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống cho chúng ta”, khi cạnh nương long của Chúa Giêsu bị xuyên qua máu và nước đã chảy ra. Theo truyền thống xưa của Giáo Hội, nước là biểu hiệu của phép rửa và máu là biểu tượng của bí tích Thánh Thể. Thánh Phaolô ngày hôm nay đã nhắc nhở cho chúng ta rằng, chúng ta đã chịu phép rửa để chúng ta được mặc lấy Chúa Kitô. Tại phép rửa chúng ta đã lãnh nhận một áo trắng, biểu tượng đó là chúng ta đã mặc lấy Chúa Kitô, chúng ta mặc lấy một đời sống mới, một đời sống mà đã chinh phục chúng ta bằng mầu nhiệm Vượt Qua và bây giờ được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể.

Qua lời tuyên xưng, chúng ta nói về sự tiếp nhận Thánh Thể của chúng ta: “Khi chúng ta ăn bánh và uống chén này chúng ta tuyên xưng cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu cho đến khi Chúa lại đến trong vinh quang”.Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, đó là một thực tại tuyệt cao trong tâm trí đời đời của Thiên Chúa. Chúng ta cũng đến với Thánh Lễ vào mỗi ngày Chúa Nhật để cử hành mầu nhiệm Vượt Qua.

 

21. Lệnh truy nã.

(Trích dẫn từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Trên một bức tường cao ốc tại thành phố Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ, có dám một thông báo khổ lớn 5mx3m với những dòng chữ sau:

Công lực có bổn phận truy mã thủ phạm trọng tôi Giêsu Nagiaret,bí danh Messia, tức là Kitô. Theo chứng minh nhân dân, phậm nhân mang quốc tịch Do Thái, sinh tại Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, hậu duệ Đavit. Mẹ y là Maria, không đề tên cha, chỉ bố nuôi là Giuse-Nagiaret, miền Galilê. Nghề nghiệp thợ mộc, lao động đủ sống, chưa lập gia đình.

Tội trạng: sau vụ phép rửa sám hối của ông Gioan Tẩy Giả, tên Giêsu bỏ xưởng mộc, ngưng sản xuất, đi lang thang, kể như vô gia cư, vô nghề nghiệp. Y tự ý kết nạp một số thanh niên đủ giai cấp trong xã hội: dân chài lưới, bọn thu thuế, nông dân mộc mạc, kéo nhau đi rao truyền một thứ Nước Trời nào đó sắp tới, làm náo động dân thị hiểu nhiều nơi, làm cho nhân dân bỏ công việc làm ăn. Đó là tội gây rối trận tự trị an…

Thưa anh chị em,

Đây là câu chuyện giả sử của một nhóm khá đông thanh niên nam nữ Hoa Kỳ muốn lôi kéo sự chú ý của dân chúng đến một con người lịch sử lạ kỳ của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, đã xuất hiện trên địa cầu cách đây 20 thế kỷ. Nhưng cho đến nay, người ta vẫn ái mộ hoặc đả kích kịch liệt con người ấy và xem như ông vẫn ám ảnh nhiều người dài dài…

Vào lúc sinh thời tại Palestine, Ngài cũng đã gây một dư luận quần chúng khác nhau chung quanh Ngài. Theo Tin Mừng Thánh Luca kể lại, trong dân chúng, người thì nói: “Ông ấy là Gioan Tẩy Giả”; kẻ khác lại nói: “Ông ấy là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào khác…”. Chúa Giêsu cũng đã nghe biết những dư luận hàm hồ nầy. Và có lần Ngài hỏi các môn đệ, những người đã từng sống bên Ngài từ vài năm nay. Ngài đặt câu hỏi: “Dư luận nghĩ Thầy như thế, còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?:” Các môn đệ im lặng. Câu hỏi nầy mới khó trả lời, vì đây không còn nói đến những gì các ông nghe biết nữa, nhưng là nói đến điều các ông tin. Các ông tin Thầy của mình là ai? Và niềm tin nầy sẽ thiết lập mối liên hệ của các môn đệ với Chúa Giêsu. Ai cảm thấy mình chắc chắn để trả lời đây? Các ông không nói: “Chúng con cũng nghĩ như dân chúng: Thầy là Gioan Tẩy Giả, là Êlia, là một tiên tri…”. Sự im lặng của các ông có thể muốn nói rằng: “húng con nghĩ rằng Thầy còn hơn một tiên tri nữa…”. Nhưng ai dám nói điều đó?

Chính là Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Phêrô trả lời như một người Do Thái có thể trả lời. Dân Israel đang mong chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Nhưng điều đáng chú ý và thật là quá sức để nói: “Chúng con tin Thầy là Đấng Thiên Sai Cứu Thế”. Thế mà Phêrô dám nói lên điều đó và không ai trong nhóm các ông nói ngược lại. Phêrô nói thay lời anh em. Chúa Giêsu nói với Phêrô: đức tin của ông thật đúng lúc. Chắc hẳn trong đời Phêrô có những lần ông bị trách là nghi ngờ, là tự cao tự đại, là kém lòng tin. Đó là những giây phút ông không tin tưởng đủ. Nhưng ở đây, ngay bây giờ thì đức tin của ông thật chính xác và mạnh mẽ.

Còn chúng ta, thưa anh chị em, khi nói về đức tin của mình, chúng ta có chắc chắn được rằng đức tin đó còn trong chúng ta không? Chúa Giêsu có chấp nhận đức tin của chúng ta như đã chấp nhận đức tin của Phêrô không? Nói cách khác, nếu Chúa Kitô đến giữa chúng ta, chúng ta có nhận được Ngài như Ngài muốn không? Nơi nào trên thế giới nầy có cái may mắn nhất để tiếp nhận Ngài? – Ở Rôma, trung tâm của Giáo Hội hay ở các đền thờ hành hương? – Không, ngay trong lòng chúng ta và nơi những người khác, Chúa chờ chúng ta ở đó. Tôi muốn nói, nếu Đức Kitô trở lại giữa chúng ta, Ngài không làm gì khác như trước đây 2000 năm Ngài đã làm: Ngài sẽ ở giữa chúng ta, với những người nghèo khổ nhất trong chúng ta. Ngài sẽ ở giữa những gia đình như gia đình Nagiaret của Ngài ngày xưa, và ai muốn gặp Ngài thì trước hết phải tìm Ngài nơi Ngài đang ở, có nghĩa là nơi những người nghèo khó.

“Anh em bảo Thầy là ai?”

Nếu Chúa Kitô trở lại, con người ngày nay phải trả lời cho Ngài thế nào? – Tôi đã được nghe nhiều người nói thế nầy:

– Ngài là Chúa, con kính mến Chúa trên hết mọi sự. Chúa bảo gì con cũng làm hết, nhưng với những thù địch thì con không thể nào yêu thương được, con chịu thôi!

– Hoặc là: Ngài là lý tưởng của con, của tất cả mọi người. Nhưng lý tưởng của Ngài sáng chói quá, khó quá, ai mà sống được như Ngài!

– Hoặc nữa: Ngài là người đã đặt ra những luật lệ hay nhất, chính đáng nhất, nhưng làm sao chúng con giữ được, nhất là sống thời buổi kinh tế thị trường nầy?…

Thưa anh chị em,

Những lời tuyên xưng đó chỉ là một cách thức chối từ Chúa Kitô và đời sống của Ngài. Đó không phải là câu trả lời của những người đang thực sự sống đức tin của mình. Sống đức tin là gì? Chính là họa lại đời sống của Chúa Kitô nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta. Trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Thầy là ai” là để cố gắng sống theo những gì mình đã xác tín và tuyên xưng về Chúa Kitô, chứ không phải trả lời xong để rồi cố thủ với con người, với ích kỷ, lười biếng của mình. Và một khi đã xác tín và tuyên xưng: “Ngài là Đức Kitô”, thì phải trung thành dấn thân theo Ngài cho đến cái chết treo trên thập gí. Chết trên thập giá như Chúa Giêsu thì rất hiếm, nhưng mọi Kitô hữu đều phải vác thập giá mỗi ngày trong đời sống và phải sẵn sàng bước lên thập giá đó. Điều đó có ý nghĩa cụ thể là người ta không thể là môn đệ của Đấng bị đóng đinh thập giá, nếu không chấp nhận như Thầy của chúng ta, trở thành tôi tớ của anh em trong cuộc sống hằng ngày, như Thầy đã làm.

 

22. Chúa Nhật 12 Quanh Năm

Trước khi bắt đầu cuộc hành trình về Núi Thánh, thầy tu viện trưởng dẫn các tu sĩ của mình đến cửa hiệu bán thập giá lớn nhỏ đủ cỡ và nói: “mỗi người hãy chọn lấy cho mình một thập giá để vác trong suốt cuộc hành hương. Các tu sinh chạy nhanh đến tranh nhau chọn cho mình một cây thập giá nhỏ nhất. Khi tất cả đã chọn xong thì còn lại cây thập giá to nhất cho thầy tu viện trưởng! Thầy bước đến, vác lấy cây thập giá đó và bước đi cách nhẹ nhàng. Trong khi đó, vị tu sĩ dành được cây thập giá nhỏ nhất lại vác đi cách nhọc nhằn mệt mỏi…

Câu chuyện vui trên đây nói lên thái độ mỗi người chúng ta đối với thập giá. Chúng ta nói mình yêu mến Chúa, sẵn sàng vác thập giá theo Chúa nhưng trong thâm tâm chỉ muốn có cây thập giá nhẹ nhất, theo ý riêng mình chứ không phải theo ý Chúa. Chúng ta vẫn còn sống theo thói đời, suy nghĩ theo kiểu thế gian, tìm sự dễ dãi hơn là theo Chúa!

Rất nhiều người cậy dựa vào của cải, quyền thế của mình, không muốn vác thánh giá. nhiều người nghèo vẫn đặt của cải, tiền bạc lên hàng đầu, hơn cả Chúa, họ cũng không sống tinh thần nghèo khó! Thế gian không muốn theo ý Chúa và thường bịt mắt làm ngơ trước những lời dạy của Chúa giêsu. Nhiều người trong thế hệ trẻ sống theo thói đời, buông theo dục vọng và cảm tính. Họ giống như những con thiêu thân không ngừng lao vào chỗ nguy hiểm dẫn đến cái chết đời đời mà họ tưởng là con đường sán lạn đem lại hạnh phúc cho mình. Có nhiều người sống theo sự lôi cuốn của người khác, của hàng xóm, của các bạn cùng lứa chứ không có lập trường đúng sai rạch ròi! Nếu gặp bạn tốt thì họ cũng tốt, nếu gặp người xấu thì họ cũng theo cái xấu mà sống.

Chúng ta là những người nghe biết lời Chúa, là người còn thức tỉnh, tuy không hẳn là ngọn hải đăng giúp cho người khác biết đâu là bến bờ hạnh phúc nhưng có thể là ánh nến đủ soi lối cho những người đang ở gần chúng ta: những người trong gia đình, những bạn bè thân thuộc. Chúng ta hãy làm muối ướp cho đời bớt đi những truỵ lạc vì thiếu vị mặn của lòng bác ái chân thành và tinh thần vị tha.

Để hướng dẫn người khác, chúng ta phải mang theo thánh giá Chúa Giêsu và bước đi theo Ngài. Vác thánh giá là từ bỏ ý riêng và sẵn lòng đón nhận ý Chuá. “Ai muốn theo ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thánh giá mình hàng ngày mà theo. Còn ai không vác thánh giá, chỉ nhắm việc chăm chút thân xác, hoặc chỉ lo đời này thì cũng không giữ được nó. Vì vậy, chúng ta phải lo vấn đề đời sau, đừng sống như những người không biết Chúa.

Chúng ta cần lội ngược dòng đời. Thế gian tìm của cải, nhưng chúng ta tìm hạnh phúc đời đời. Nhiều nơi trên thế giới phân biệt sắc tộc, tôn giáo hoặc phân biệt đối xử, phe phái. Còn chúng ta là con cái Chúa hãy tìm sự công bằng, huynh đệ, bình đẳng, không phải trên môi miệng nhưng bằng lòng bác ái chân thành xuất phát từ lòng yêu mến Chúa là Chân Thiện Mỹ.

Lạy Chúa, xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa qua những công việc bổn phận là những thập giá Chúa gởi đến thanh luyện chúng con, giúp chúng con luôn hướng về Chúa và sự sống đời đời.

 

23. Đấng Mêsia đau khổ – Flor McCarthy

(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Suy Niệm 1. TRỞ NÊN CHÍNH MÌNH.

Có những người thèm khát được tán thưởng. Họ có lẽ đã lớn lên với cảm giác mình bị bỏ quên, bị chỉ trích và chê bai. Người nào có sự nghi ngờ thật sự và sâu xa về chính mình luôn luôn chờ đợi sự xác nhận của người khác.

Người nào càng thiếu căn tính của bản thân và sự thành công, càng cảm thấy có nhu cầu đồng hoá mình với một nhóm xã hội đang thành đạt. Có người đeo mặt nạ để chiếm được sự tán thưởng. Nhưng người nào luôn phô trương, thì những dự tính hiếm khi đạt kết quả.

Khi Đức Giêsu hỏi các Tông đồ: “Dân chúng nói Thầy là ai?” Người không hỏi điều đó vì lợi ích của Người mà vì lợi ích của họ. Người biết rõ Người là ai. Người có một sự tự chủ phi thường đến nỗi Người có thể đối diện với cả sự nịnh hót và thù ghét với sự thanh thản hoàn toàn.

Tin Mừng nói về sự từ bỏ chính mình, và cũng nói về “chết cho chính mình”. Đời sống tâm linh bao gồm từ bỏ chính mình và chết cho chính mình, nhưng xét toàn bộ đúng hơn, đó là vấn đề trở nên chính mình, tức bản ngã chân thật và viên mãn. Đó là điều quan trọng nhất trong đời sống. Nếu trái lại, chúng ta không thể sống và hạnh phúc tràn đầy. Vậy, dù đường đời chúng ta là gì thì vấn đề thật sự quan trọng là chúng ta phải trở nên chính mình, không để cho nỗi sợ hãi điều người khác nghĩ về chúng ta làm chúng ta tê liệt.

Trong đời sống công cộng, cái tôi thật đặc biệt khó thấy rõ. Phongxiô Philatô biết rằng Đức Giêsu vô tội nhưng sợ làm mất địa vị với vinh dự và các đặc quyền mà đối với ông là tất cả mọi ý nghĩa. Khi chúng ta phạm tội vì sợ mất địa vị thì cái “bản ngã” của chúng ta chìm sâu vào bóng tối. Nhưng bản ngã thật hiện rõ khi chúng ta làm theo lương tâm, và có đủ dũng cảm để liều mình bước ra khỏi con đường xấu.

Bản ngã chân thật hiện rõ trong sự khiêm nhường, qua mọi thất bại và cả những lầm lỗi. Đó là một sự phát triển chậm và đẹp qua mọi giai đoạn của đời sống. Vì chúng ta lữ hành hướng về điều đó, chúng ta được kêu gọi phải sống nhẫn nại và cho phép mọi việc xảy đến với chúng ta –bệnh tật, khủng hoảng mất mát- để hoạt động một cách hiền hoà ở giữa chúng ta. Khi chúng ta thật sự ước muốn sống chân lý, mọi việc sẽ cùng nhau hoạt động cho điều tốt và cho sự phát triển của chúng ta hướng về sự trưởng thành tâm linh.

Sự trưởng thành ấy có thể không thấy được. Nó xảy ra bên trong chúng ta. Đặc biệt nó xảy ra trong những người khiêm hạ và không quan trọng về mặt xã hội. Nó không cần mang đến phần thưởng danh dự và tiền bạc. Nhưng nó sẽ dẫn đến một sự hiệp thông sâu xa với những người khác.

Trong quá khứ, tính tâm linh liên quan đến việc mặc lấy một cái ngã khác –thường là một cái ngã sùng tín và thánh thiện. Tính tâm linh thật ra không phải là vấn đề mặc lấy một cái gì từ bên ngoài chúng ta, nhưng là rút ra điều mà chúng ta đã được ban cho. Đó là làm hiện rõ cái bản ngã tâm linh của mình. Bản ngã tâm linh là bản ngã thật, làm bằng chất liệu con người nhưng mang hình ảnh của Thiên Chúa.

Qua mọi giai đoạn phát triển, mục đích thật sự trong đời sống là trở thành chính mình, là làm cho mọi rào cản sụp đổ để cái “tôi” thâm sâu nhất có thể xuất hiện rõ ràng. Nó không muốn trở thành điều mà những người khác muốn chúng ta trở thành hoặc hô hào chúng ta quan tâm bằng mọi giá. Nó không muốn nỗ lực trở thành một người khác, những trưởng thành từ hạt giống sự sống ở bên trong chúng ta. Chúng ta là những người khách hành hương xa lạ trong cuộc hành trình để trở thành người mà chúng ta thật sự vẫn là. Thật bi đát khi luôn luôn có rất ít người “chiếm hữu được linh hồn họ” trước khi họ chết.

Suy Niệm 2. NHẬN THỨC CỦA DÂN CHÚNG

Dân chúng nói tôi là ai? Hoặc Tôi như thế nào đối với những người khác? Đó là những câu hỏi mà nhiều người hỏi, nhưng đặc biệt là những người được dân chúng nhìn vào.

Khi Đức Giêsu hỏi: “Dân chúng nói Thầy là ai?”. Người không hỏi điều đó vì lợi ích cho Người mà vị lợi ích của các Tông đồ. Đức Giêsu biết rõ Người là ai. Người có sự tự chủ phi thường đến nỗi Người có thể đối mặt với cả sự nịnh hót lẫn sự thù ghét với sự thanh thản hoàn toàn.

Một số người thèm khát được tán thưởng. Hẳn họ đã lớn lên với cảm thức mình bị bỏ quên, chê bai và chỉ trích. Người nào có sự hoài nghi sâu xa, thật sự về mình luôn luôn tìm kiếm sự xác nhận của những người khác.

Chúng ta cần tìm kiếm thực tại của riêng mình để có thể đứng vững trên đôi chân của mình. Do đó chúng ta không cần người khác chống đỡ cho chúng ta. Có những người có một ngọn lửa chiếu sáng rực rỡ liên tục từ nơi thâm sâu của tâm hồn họ. Ngọn lửa ấy không biết đến họ, vì nó không lệ thuộc vào điều mà những người khác nghĩ về họ. Đó là điều họ nghĩ về chính họ với sự chắc chắn và thanh thản.

Tuy nhiên, một đôi khi nhìn lại chính mình như những người khác nhìn chúng ta có thể có lợi cho chúng ta.Alfred Nobel là một nhà công nghiệp người Thuỵ Điển giàu có và danh tiếng. Ông đã phát minh ra chất nổ. Nhưng gần cuối đời ông hoàn toàn không hạnh phúc. Ông chưa bao giờ kết hôn và cả đời ông, ông bị sức khoẻ kém là phiền nhiễu. Kết quả là ông có một nhân sinh quan rất bi quan.

Thế rồi, một sáng nọ, ông đọc thấy trong một tờ báo một cáo phó của ông. Đó là một nhầm lẫn của một nhà báo. Ông rất bối rối bởi những điều ông đọc. Điều làm ông tổn thương nhất là hình ảnh sai lạc mà dân chúng có về ông. Thế giới biết đến ông như “một ông vua chất nổ”. Đó là từ người ta dùng để nhắc đến ông. Trong bản cáo phó, người ta không hề nói đến mong ước của ông muốn đoàn kết các dân tộc và làm cho chất lượng của đời sống con người tốt hơn.

Tổn thương to lớn đối với ông là khám phá ra rằng mọi điều chủ yếu, mọi việc làm nên cái cốt lõi của đời ông đã bị che giấu đối với người khác; còn mọi điều sai lạc lại được phổ biến công khai. Ông cảm thấy hoàn toàn bị hiểu lầm. Ông không phải như thế. Ông quyết định phải lập tức hành động để cho thế giới biết lý tưởng thật và mục đích của đời ông.

Ông để lại phần lớn gia tài khổng lồ dùng vào việc làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Ông lập ra năm giải thưởng để phát cho các ông hay bà nào có sự đóng góp nổi bật vào các lĩnh vực vật lý, hoá học, y học, văn chương và hoà bình. Ông muốn được nhớ đến không phải như một người đã phát minh ra thuốc nổ có thể làm thế giới nổ tung, nhưng như một người có tâm hồn tốt lành và nhân hậu.

Điều đã xảy ra cho ông Nobel chứng tỏ người ta mắc sai lầm như thế nào trong sự phán xét người khác. Điều đó cũng đã xảy ra với chính Đức Giêsu. Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng có những ý tưởng khập khiễng về Người. Có kẻ nghĩ Người là Gioan Tẩy Giả (lúc đó đã chết). Những người khác thì nói là một ngôn sứ thời xưa sống lại.

Đức Giêsu là Đấng Mêsia như Phêrô đã đoán chính xác. Nhưng Người không là Đấng Mêsia vinh quang như dân chúng đã mong đợi. Người phải là một Đấng Mêsia đau khổ. Người không thống trị, Người phục vụ. Đức Giêsu không quan tâm chiếu rọi hình ảnh mà dân chúng muốn. Người biết Người có một số phận mà Thiên Chúa đã định mà Người phải hoàn thành, không sai sót.

Chúng ta sẽ mắc sai lầm nếu bận tâm chính của chúng ta chiếu rọi một hình ảnh tốt đẹp và và sống theo những kỳ vọng của người khác. Điều duy nhất mà chúng ta được mời gọi trở thành là phải trở nên cái bản ngã chân thật của mình. Chúng ta không thể sống viên mãn và hạnh phúc nếu không hoàn thành điều đó. Nhưng chúng ta không nên bằng lòng cho đến lúc đạt đến mức độ tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được trong việc trở nên chính mình. Vậy, dù đường đời của chúng ta như thế nào, điều thật sự quan trọng là chúng ta phải trở nên chính mình trước mặt Thiên Chúa và người khác. Đây là cuộc hành trình về lại nhà mình.

 

24. Những đòi hỏi của cuộc khổ nạn – R. Gutzwiller

LOAN BÁO LẦN NHẤT

  1. Đối với chính Đức Kitô

Việc giáo dục lòng tin mang lại kết quả nào? Bây giờ ta thử xét xem.

‘Theo như dân chúng nói thì Ta là ai?’. Câu trả lời không thoả đáng tý nào. Một số thì coi Ngài như là Gioan Tẩy giả, số khác coi Ngài là Êlia, số khác nữa coi Ngài như một tiên tri thời xưa nào đó sống lại. Như vậy việc huấn luyện dân chúng về mặt tinh thần chẳng đi đến đâu; ngoại trừ các tông đồ.

‘Còn các con, các con nói Ta là ai? Phêrô đáp: ‘Đức Kitô của Thiên Chúa’. Họ đã nhận ra Ngài là Đấng cứu thế. Việc Đức Giêsu mặc khải đã thực hiện được bước dứt khoát. Trong Do thái giáo thời đó, và dĩ nhiên là cả các tông đồ nữa, họ không quan niệm về Đấng Messia một cách đầy đủ và đúng đắn. Họ trông chờ Đấng Messia đem đến sự giải phóng chính trị và quốc gia bành trướng, dĩ nhiên là được sống thoải mái ngay dưới thế và thoát moị nỗi âu lo.

Đức Kitô thực sự là một Đấng Cứu Thế, nhưng theo một nghĩa khác hẳn. Ngài là Tôi tớ Giavê như tiên tri Isaia loan báo, là Con Người đau khổ, là Con Chiên bị đem đi giết, là Người cơ cực phải gánh lấy gánh nặng thay cho dân và chuốc lấy mọi khổ đau. Đặc tính ấy của Đấng cứu thế chỉ mơí được tỏ rõ khi Ngài tuyên bố cho các tông đồ lời lạ lùng này: ‘Con Người, phải chịu nhiều đau khổ’, như vậy, chẳng còn là vinh quang phàm tục, là vĩ đại thế trần, hay đời sống thoải mái tại thế. Con đường Ngài đi là con đường khổ cực, khiêm tốn và âm thầm. Đây không phải là cái đau khổ của một người với tư cách cá nhân mà là sự đau khổ của Đấng Messia nơi dân Ngài.

Vì ‘Ngài bị hàng niên trưởng và các Thượng tế cùng ký lục từ bỏ’. Ba nhóm người có thế lực chính thức: các Thượng Tế, ký lục và đại diện chính trị của mười hai chi tộc. Như vậy, tất cả những ai trong hội đồng cố vấn tối cao, quyền hành pháp và lập pháp của dân đều ghét bỏ Ngài. Chức vụ Cứu Thế của Ngài coi như chẳng còn gì đáng nói nữa: Ngài chẳng phải là người họ tuyển chọn mà bị họ sa thải. Ngài chuốc lấy sự nhục nhã của những người tội lỗi, của những người lìa xa Thiên Chúa với mục đích huỷ bỏ sự nhục nhã ấy và làm cho những kẻ hư hỏng thành những người được chọn.

Được Thiên Chúa sai đến, bị con người ghét bỏ, nhưng Ngài cũng sẽ chu toàn sứ mệnh và thực hiện được lời mời gọi con người để họ có thể theo Ngài và đến với Thiên Chúa.

‘Ngài sẽ bị giết’. Đấy là hình khổ cuối hết và trên hết. Đây là cuộc hiến tế toàn vẹn, Thiên Chúa không có can thiệp gì hết, lúc ấy, chẳng có ai ý thức được cuộc hiến tế ấy để rồi ăn năn sám hối mà trở lại. Đó là một sự bỏ rơi, và bỏ rơi trong tuyệt vọng, sự nhục nhã biến thành sự bỏ rơi hoàn toàn.

Satan tự hào về cái chết ấy, và chỉ sau đó nó mới nhận ra một sự thất bại hoàn toàn, vì cái chết, một hiến tế cho Thiên Chúa hằng sống, lại phát khởi một cuộc sống mới.

‘Ngày thứ ba Ngài sống lại’. Đây là lần đầu tiên ta thấy rõ đặc tính và bản chất vai trò Cứu Thế của Đấng Cứu Thế. Đây cũng là lúc ta có một cái nhìn hướng về tương lai, về một đời sống hoàn toàn khác biệt, đến những thực tại bên kia thế giới. Việc Chúa sống lại là khởi điểm sự sống lại của nhân loại mới. Cái chết của Ngài là sự trở về lòng đất mẹ để tái sinh thành ‘trưởng tử trong loài thọ sinh’. Rồi ai cũng chết theo Ngài sẽ cùng được tái sinh với Ngài.

Cái chết của Ngài khai mở cánh cửa sự sống. Ngài bước qua cánh cửa đó để tiêu diệt cái vận mạng tàn khốc đã khiến mọi vật chất phải chết, vì từ đây, nơi Ngài và nhờ Ngài, có một sinh lực làm cho mọi vật sống lại và chiến thắng sự chết.

Sứ mệnh của Ngài lớn lao quá đến nôĩ các tông đồ không thể tiên cảm được. Việc tiên báo cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Chúa mới nghe như sét đánh, như một sự thật không lãnh hội được, hoàn toàn không như họ tưởng và làm tiêu tan mối hy vọng sẵn có của họ.

Thực ra việc loan báo ấy làm nổ tung khuôn khổ ý tưởng hẹp hòi của họ, và mở ra cho họ một chân trời khác rộng lớn hơn. Bởi thế, việc tiên báo thương khó, ngoài việc gây kinh ngạc còn hàm chứa một yếu tố hoan lạc.

  1. Đối với các tín hữu.

‘Nếu ai muốn theo Ta, thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình môĩ ngày và hãy theo Ta’. Đó là một đòi hỏi hết sức rõ rệt. Nếu Đức Kitô ôm ấp con đường đau khổ mà cuối đường là cây Thập giá, thì ai muốn theo Ngài tất nhiên phải đi vào con đường đó. Như một kẻ bị kết án vác thập giá đến nơi hành quyết, thì người Kitô hữu cũng tự coi mình đã bị thế gian lên án và đời mình là một cuộc hành trình đến pháp trường, và phải mang lấy gánh nặng của án lệnh do con người phán quyết.

Họ cô đơn, không được thông cảm, bị lên án bởi các vị cầm quyền chính thức. Họ mang thân phận phải chết; đời sống của họ là một cuộc hiến tế, một hiến tế được chấp nhận. Đây là những cái đi ngược với cảm quan và ước vọng hoàn toàn tự nhiên của họ. Thế nên, họ luôn phải tự nhắc cho mình tiếng ‘không’ của việc từ bỏ.

Tuy nhiên, như Chúa Kitô, Ngài chỉ phục sinh sau khi đã bước qua chặng đường khổ nạn, chết đi, thì cuộc sống của người Kitô hữu, vốn dĩ đã cực nhọc cả bề trong lẫn bề ngoài, vẫn mang vẻ thua thiệt, mà thực tế lại là một mối lời, kể như đã chết mà thực ra đang sống.

‘Ai muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất, còn ai mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ được sống’. Diễn trình suy nghĩ tự nhiên và ích kỷ muốn đạt được những lợi ích phàm tục, trần thế… và song song với cái diễn trình ấy là cái tôi, cái tôi tốt nhất, phải bị tiêu diệt. Nào người ta được ích gì khi được lời lãi cả thế gian mà lại mất linh hồn mình? Nhưng thực tế, chỉ con đường ấy mới dẫn đến sự sống.

Thông phần sự vinh quang của Chúa Kitô, đó là đích điểm con người phải nhắm tới trước hết. Sự vinh quang này xét dưới ba phương diện: Sự vinh quang khi Chúa biến hình và sự vinh quang của Cha trên trời, và sau cùng là sự vinh quang của các thiên thần bao quanh hai vinh quang trên.

 

25. Đau khổ sinh hoa trái

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.

Cậu bé nọ có một con chiên, cậu rất yêu quý và hay chơi đùa với nó. Lần kia, con chiên quẹt phải bụi gai khiến nó mất một mảng lông và bị chảy máu. Cậu bé một mực đòi bố chặt bỏ bụi gai đáng ghét kia đi, vì đã làm đau con chiên của cậu. Nhưng bố ngồi xuống bên cậu, không xa bụi gai lắm và thinh lặng quan sát. Một chú chim nhỏ bay đến đậu trên bụi gai và ngây ngất hót líu lo. Sau đó, nó nhặt một ít lông chiên còn vướng trên bụi gai và bay về làm tổ.

Câu chuyện này có tên là “Đau khổ sinh hoa trái”. Đau khổ đâu phải lúc nào cũng là tai ương. Nếu không nói là có lợi nữa. Con chiên mất ít lông, rồi nó sẽ lành lại. Nhưng ít lông bị mất đó sẽ là chiếc tổ ấm áp cho con chim. Đau khổ không phải là đề tài mới mẻ, nhất là trong Phúc Âm, nhưng tôi vẫn muốn chia sẻ đề tài này cùng các bạn. Bởi từ xa xưa cho đến hiện đại người ta ngại nói về đau khổ và chẳng mấy ai tha thiết với nó. Với Kitô giáo nói đến đau khổ là nói đến thập giá. Mà thập giá thì quả là chua cay đắng đót. Ngày nay mà nói đến đau khổ hay vác thập giá có thể gây khó chịu cho một vài người. Với hạng người trần mắt thịt đó điều ấy quả là khờ dại. Nhưng điều điên dại của con người lại là khôn ngoan với Thiên Chúa và chính Thiên Chúa đã dùng chính con đường khó nguy ngập tràn đó để cứu chuộc con người.

Đức Giêsu đã khẳng định: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều” (Lc 9, 22). Đức Giêsu chẳng phải đã chịu đau khổ mới bước vào vinh quang đó sao? Đệ tử không hơn thầy. Nếu Đức Kitô đã chịu đau khổ như thế thì chúng ta không thể có được quang vinh mà thoát qua được khổ đau. Cha linh hướng của tôi nói rằng: “Anh em không thể tránh được đau khổ đâu. Thiên Chúa sẽ kéo anh em cho đến khi anh em đến chân thập giá mới thôi”. Còn Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Nếu anh em không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không thể làm môn đệ của Thầy”. Lời nhắc bảo này đã đủ cho chúng ta biết. Thập giá có đó. Chúng ta không thể tránh khỏi. Lời thánh Phaolô vẫn còn bên tai chúng ta: “Chúng ta phải chịu nhiều đau khổ mới vào Nước Thiên Chúa” (Cvtđ 14, 22).

Nhưng trớ trêu thay. Chúng ta ngày nay muốn vinh quang mà ngại hy sinh, muốn vào nước trời nhưng không muốn vác thập giá mà theo. Muốn được kho tàng trên trời nhưng không dám bỏ của cải trần gian. Bạn hãy nghe lời kết luận của Thomas à Kempis: “Chúa Giêsu luôn có nhiều người yêu mến Nước Trời nhưng ít người muốn vác thập giá. Chúa có nhiều người mong muốn an ủi, nhưng ít người muốn thử thách. Chúa tìm thấy nhiều người muốn ngồi dự tiệc với Người nhưng ít người muốn ăn chay. Tất cả đều muốn hạnh phúc với Người nhưng ít muốn chịu đau khổ vì Người. Nhiều người theo Chúa đến chỗ bẻ bánh, nhưng ít người muốn uống chén đau khổ của Người. Nhiều người tôn sùng phép lạ nhưng ít người tôn sùng thập giá”. Ngày nay, người ta chẳng còn yêu chuộng sự đau khổ nữa. Người ta không muốn nói về hy sinh, khổ chế. Cho nên người ta muốn đi tìm những gì là nhanh, lẹ, thoải mái, êm dịu, dễ giải, thịnh vượng, hạnh phúc, tiến bộ. Và như thế những gì là rủi ro, bệnh tật, thất bại, tuyệt vọng, chán chường thì phải tránh bằng mọi giá.

Tuy vậy, nói như thế không có nghĩa là phía trước chúng ta chỉ toàn những đớn đau, vết thương, khó nhọc mà chúng ta phải chấp nhận một cách vô điều kiện. C. S Lewis viết: “Kitô giáo không lấy đi sự khó khăn của đời sống, nó chỉ đem lại một lý do để chịu đựng khó khăn ấy”. Thập giá có cho người khác thì cũng có cho chính bạn. Thiên Chúa không ưu tiên cho bạn hơn người khác. Thế nhưng, nếu bạn không dành cho thập giá một tình yêu thì thập giá thật sự nặng nề. Khi bạn cho rằng đó là cơ hội để bạn chịu đau khổ và nên giống Chúa Kitô thì thập giá là niềm hạnh phúc. Chấp nhận đau khổ theo Đức Giêsu còn là một điều phúc (x. Mt 5,5). Chấp nhận đau khổ, nhất là với một tinh thần tự ý còn là một thình thức sám hối hữu hiệu. Đau khổ mang giá trị thanh tẩy thật, giúp tâm hồn dễ dàng tiến triển trên con đường nhân đức. Đau khổ là cách thể tuyệt vời để luyện tâp tâm tính như Raymond Offner đã nói: “Đau khổ làm cho người ta trở nên khôn ngoan sáng suốt hơn”. Chúa chỉ thử thách những người chúa thương và muốn cho họ nên nghĩa thiết với Người trọn vẹn. Nên vấn đề ở đây không phải là tìm cách để loại trừ thập giá nhưng là tìm phương thế để vác lấy nó, mà vác cho có hiệu quả nữa.

Mỗi người sẽ có thập giá riêng, nặng nhẹ khác nhau. Niềm hy vọng nơi Tin Mừng Chúa phục sinh là nguyên cớ để chúng ta can đảm vác thập giá. Qua thập giá chúng ta hoàn tất cuộc đời mình và tìm được hạnh phúc vĩnh cửu, như lời khuyên của Padre Pio: “Sự từ bỏ chính mình không phải là món quà chúng ta dâng cho Chúa, nhưng là để Chúa làm nhiều hơn cho chúng ta”. Hay nói như Đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận: “Tránh đau khổ con đừng mong làm thánh”. Vì Đức Kitô, qua Đức Kitô và nhờ Đức Kitô mà chúng ta chịu trăm ngàn thử thách ở đời này.

 

26. Hai câu hỏi – Mark Link

(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)

. “Đức Giêsu là ai trong sự liên hệ với chúng ta?

. Chúng ta là ai trong sự liên hệ với Đức Giêsu?”

Một cậu bé 15 tuổi và người cha đang lái xe ngang qua một phi trường nhỏ trong một tỉnh lẻ ở Ohio. Bỗng dưng có một chiếc máy bay bị trục trặc, bay xà mặt đất rồi xoay tròn và đâm đầu xuống phi đạo. Câu bé la lên, “Bố ơi, dừng xe lại!” Một vài phút sau cậu bé lôi người phi công ra khỏi máy bay. Đó là thanh niên 20 tuổi đang học lái máy bay, đang thực tập cất lên và đáp xuống. Thanh niên này đã chết trong tay cậu bé.

Khi về đến nhà, cậu đến ôm bà mẹ và khóc, “Mẹ ơi, anh ấy là bạn con! Hắn mới 20 tuổi!” Tối hôm đó, cậu quá bàng hoàng đến độ không muốn ăn. Cậu vào phòng, đóng cửa lại và nằm thừ trên giường. Cậu đang làm việc bán thời gian tại một tiệm thuốc. Mỗi đồng kiếm được cậu dành dụm để học lái máy bay. Cậu nhất định có được bằng lái khi 16 tuổi. Cha mẹ cậu tự hỏi không biết tai nạn thảm khốc ấy ảnh hưởng thế nào đến con trai của họ. Liệu nó có bỏ học lái không, hay vẫn tiếp tục? Họ để cho cậu tự quyết định.

Hai ngày sau, bà mẹ đem vào phòng cậu một ít bánh mới nướng. Trên mặt tủ quần áo bà thấy có cuốn nhật ký còn mở. Đó là cuốn nhật ký mà cậu đã gìn giữ từ khi còn nhỏ. Ngang qua đầu trang giấy có hàng chữ lớn, “Đặc Tính của Đức Giêsu.” Bên dưới là một chuỗi các đức tính:

“Đức Giêsu thì không phạm tội; Người khiêm tốn; Người thương kẻ nghèo; Người không ích kỷ; Người gần với Thiên Chúa…”Bà mẹ thấy rằng trong những giây phút khó quyết định, cậu đã quay về với Đức Giêsu để xin sự hướng dẫn.

Sau đó bà quay sang cậu con trai và nói, “Con quyết định gì về việc học lái máy bay?” Cậu nhìn vào mắt mẹ và nói, “Mẹ ơi, con hy vọng là bố mẹ sẽ hiểu cho con, nhưng với sự trợ giúp của Thiên Chúa, con phải tiếp tục học bay.”

Cậu trai đó bây giờ là ông Neil Armstrong. Và vào ngày 20-7-1969, ông là người đầu tiên đặt chân trên mặt trăng.

Rất ít người khi xem biến cố lịch sử đó trên truyền hình đã không biết rằng một trong những lý do giúp ông Neil Armstrong đặt chân lên mặt trăng là Đức Giêsu. Họ không biết rằng chính nhờ Đức Giêsu mà ông đã có được sức mạnh cũng như sự hướng dẫn để thi hành một quyết định quan trọng thời niên thiếu mà giờ đây giúp ông thành công đi trên mặt trăng.

Tôi thích câu truyện này vì nó trả lời cho câu hỏi của Đức Giêsu trong bài phúc âm hôm nay-“Các con nói Thầy là ai?”–trong một kiểu cách trả lời mà chúng ta ít thường được nghe. Cậu Neil Armstrong đã không trả lời câu hỏi ấy bằng cách nói với Đức Giêsu rằng, “Ngài là Con Thiên Chúa,” hoặc “Ngài là Đấng Mêsia,” hoặc “Ngài là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa.” Cậu đã trả lời câu hỏi ấy một cách đơn giản hơn. Cậu nói: “Ngài là một người không phạm tội. Ngài là một người luôn nghĩ đến người khác. Ngài là người thường quan tâm. Ngài là một người gần với Thiên Chúa.” Nói cách khác, với câu hỏi “Con nói Thầy là ai?” cậu Neil Armstrong không trả lời theo thần học. Cậu đã trả lời theo cảm nghĩ riêng tư. Cậu nhìn đến tâm hồn mình và diễn tả điều cậu cảm nghiệm được về Đức Giêsu trong cuộc đời mình.

Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như vậy. Chúng ta phải trả lời câu hỏi của Đức Giêsu-“Con nói Thầy là ai?”-bởi nhìn vào tâm hồn chúng ta và diễn tả cảm nghiệm sống động hằng ngày của chúng ta đối với Đức Giêsu. Và cảm nghiệm đó thật khác biệt với mỗi người chúng ta. Vì đối với một số người, Đức Giêsu là một người mà chúng ta có thể quay về để xin được dẫn dắt khi chúng ta hoang mang. Với những người khác, Đức Giêsu là người mà chúng ta có thể quay về để xin sức mạnh trong những lúc bị thử thách. Còn với những người khác nữa, Đức Giêsu là người hiểu chúng ta, ngay cả khi chúng ta không hiểu chính mình.

Và điều này đưa chúng ta đến phần thứ hai của bài phúc âm hôm nay. Nếu phần đầu của bài phúc âm là câu hỏi “Chúng ta cảm thấy Đức Giêsu như thế nào?” thì phần thứ hai đề ra câu hỏi “Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?”

“Nếu ai muốn đến với tôi, họ phải… vác thập giá hàng ngày và theo tôi.”

Những lời này của Đức Giêsu thách đố chúng ta phải tự hỏi mình, “Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?

Ngài có cảm thấy chúng ta là các môn đệ của Ngài hay không?”Nói cách khác, chúng ta có vác thập giá hàng ngày của mình và theo Chúa không? Hay nói cách khác nữa-cách thực tế hơn-chúng ta có bắt chước Đức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày không?

Chúng ta có sống vì người khác như Đức Giêsu đã sống vì chúng ta hay không? – Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để tìm được sức mạnh khi họ bị thử thách hay không? – Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để được hướng dẫn khi họ hoang mang hay không? – Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để được giúp đỡ khi cần thiết hay không? – Chúng ta có phải là loại người như vậy đối với các phần tử trong chính gia đình của chúng ta hay không?

Nói tóm lại, bài phúc âm hôm nay đưa cho chúng ta hai câu hỏi quan trọng.

Câu thứ nhất là: Chúng ta cảm thấy Đức Giêsu như thế nào? Chúng ta có cảm được Người như Neil Armstrong cảm nghiệm: Người đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của chúng ta không? Hay Đức Giêsu chỉ là ai đó mà chúng ta chỉ nghĩ đến khoảng một giờ đồng hồ trong ngày Chúa Nhật và các ngày khác thì quên hết?

Câu hỏi thứ hai lại càng quan trọng hơn: Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?

Người có thấy chúng ta là các môn đệ của Người không? Hay Người chỉ thấy chúng ta hâm mộ Người mà thôi?- Chúng ta có phải là người bắt chước Đức Giêsu không? Hay chúng ta chỉ là người khâm phục Chúa mà thôi? Chúng ta có vác thập giá và theo Chúa hàng ngày không? Hay chúng ta chỉ ngồi bên vệ đường và hoan hô Người khi Người vác thập giá một mình?

Đây là hai câu hỏi quan trọng mà phúc âm đề ra cho mỗi người chúng ta hôm nay: Đức Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta? Chúng ta là ai trong cuộc đời Chúa Giêsu?

Không ai có thể trả lời câu hỏi này thay cho chúng ta. Chúng ta phải tự mình trả lời.

Hãy kết thúc với lời nguyện mà đã được sáng tác bởi một Kitô Hữu vô danh cách đây gần 1.500 năm.

“Lạy Chúa!

Xin hãy là lửa sáng trước mặt con.

Xin hãy là ngôi sao dẫn đường cho con.

Xin hãy là con đường bằng phẳng dẫn đắt con.

Xin hãy là mục tử nhân hậu theo con.

Xin hãy là tất cả những điều ấy hôm nay-tối nay-và mãi mãi.”

 

27. Đồng hành với Chúa – Radio Veritas

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay được qui về một chủ đề chính là ơn gọi sống theo Chúa, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc Âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài, và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ.

Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn số mạng mà Ngài sẽ được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian thực hiện, đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá hàng ngày mà theo Ta”. Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại. Và mỗi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi, Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc.

Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài hữu hình, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phản bội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các con không biết Thần Khí nào xúi giục, Con Người đến không phải để giết đi, nhưng để cứu chữa”.

Chúa Giêsu sống và thực hiện với thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài. Trên thập giá Chúa Giêsu đã thực hiện điều này: “Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm ăn năn, Chúa phán: “Hôm nay, con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người. Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi. Đối với những kẻ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu, tôi sẽ theo Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ.

“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay hay chết khô, bị bỏ cuộc, chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa. Thánh giáo phụ Ignatio khi bị điệu ra trước mặt quan tòa, yêu cầu ngài từ chối đức tin, không chấp nhận mình là vị Kitô đồ đệ của Chúa nữa, để được sống, thì thánh giáo phụ Ignatio đã mạnh mẽ trả lời cho quan tòa rằng: “Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”, và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói những lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu nỗi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không ngừng những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”. Thánh giáo phụ Ignatio bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi, nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập, thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu thương Chúa”.

Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà của Thánh Thần của tình yêu Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thực sự cho mỗi người qua bí tích rửa tội, bí tích thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua bí tích Thánh Thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.

Nơi bài đọc thứ hai của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần, hãy lấy tình yêu của Chúa Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ những tội lỗi, nhờ tình yêu của Thánh Thần mà chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Gongôtha, và phục vụ anh chị em.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó là lời cầu nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”.

 

28. Từ bỏ mình

Hôm nay, tôi muốn trình bày về một điều kiện để bước theo Chúa, đó là phải từ bỏ mình.

Thực vậy, con đường bước theo Chúa lên đỉnh đồi Canvê là một con đường sỏi đá và chông gai, đòi buộc chúng ta phải chấp nhận thập giá, phải đón lấy hy sinh, phải từ bỏ mình từng phút và từng giây. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể từ bỏ mình, bởi vì thân mình chúng ta là chính chúng ta. Một khi thân mình chúng ta không còn nữa, thì chúng ta cũng sẽ không thể nào hiện diện trong cuộc sống. Tôi xin trả lời:

– Từ bỏ mình ở đây không có nghĩa là hủy diệt thân xác, đày đọa bản thân, nhưng có nghĩa là phải làm chủ lấy giác quan, phải kiềm chế được những khát vọng, bắt chúng đi vào con đường ngay chính mà Chúa đã chỉ ra.

Thứ nhất, đó là hãy làm chủ con mắt.

Tôi không nhớ có một vị thánh tử đạo nào đó, khi bị dân tới hoàng đế, nhưng oái oăm thay, hoàng đế lại say mê cặp mắt tuyệt vời của thánh nữ. Chúng ta có biết thánh nữ đã làm gì hay không? Thánh nữ đã móc cặp mắt tuyệt vời ấy và dâng cho hoàng đế. Dĩ nhiên, chúng ta không thể nào làm như vậy. Nhưng chúng ta vẫn phải sống tinh thần của lời Chúa:

– Nếu mắt con nên dịp tội, thì hãy móc nó đi vì thà chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn lành lạnh cả hai mà bị ném vào lửa đời đời.

Có nghĩa là chúng ta phải biết kìm hãm con mắt. Người tây phương vốn thường bảo:

– Con mắt là cửa sổ của linh hồn.

Một khung cửa sổ được mở ra để đón nhận những tia nắng ấm và những làn gió mát. Nhưng khi giông bão nổi lên và mưa rơi đổ xuống, chúng ta phải lập tức đóng nó lại, kẻo nó làm cho căn phòng trở nên ướt át và nhơ bẩn. Cũng vậy, con mắt được mở ra để ghi nhận những hình ảnh, những kiến thức làm đẹp cho tâm hồn và làm giàu cho cuộc sống. Thế nhưng, chúng ta phải lập tức đóng nó lại trước những vẩn đục xấu xa. Bởi vì, một vết mực dính trên tấm áo trắng, thì dù có giặt cũng không thể nào gột bỏ được. Một hình ảnh xấu đã lọt vào trong đầu óc, nó sẽ ngự trị và không thể nào tẩy xóa đi cho hết.

Thứ hai, đó là hãy làm chủ miệng lưỡi.

Kinh nghiệm cho hay: trên đời này, tốt hay xấu, ngon hay dở … tất cả đều bởi cái lưỡi mà ra. Thực vậy, thánh vịnh đã diễn tả:

– Số người chết bởi cái lưỡi thì nhiều hơn số người chết bởi gươm giáo.

Tục ngữ Việt Nam cũng bảo:

– Lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo.

Cái lưỡi có thể thay trắng đổi đen, vo tròn bóp méo, làm sứt mẻ tình yêu thương, khiến người khác bị thân bại danh liệt. Vậy chúng ta có ý thức trách nhiệm về lời nói của chúng ta hay không? Bởi vì đa ngôn thì đa quá, nói nhiều thì thường hay nói bậy. Khi bị mạt sát, chúng ta có biết đón nhận một cách bình tĩnh và cao thương hay không? Chúng ta có biết tránh đi những lời nói phóng đại tô màu không tôn trọng sự thật, những lời nói gièm pha hạ nhục uy tín người khác hay không? Đồng thời, chúng ta có biết dùng những lời nói ôn tồn thành thật, để tạo lấy một bàu khí hòa thuận, bắc được một nhịp cầu cảm thông hay không? Bởi vì:

– Lời nói chẳng mất tiền mua,

Liệu lời mà nói cho vừa long nhau.

Thứ ba, đó là hãy làm chủ những đòi hỏi của thân xác.

Thực vậy, con người không giống như con vật. Con vật đói thì ăn, khát thì uống. Thế nhưng, vì có trí khôn để suy nghĩ và ý muốn để chọn lựa, nên con người phải biết làm chủ những đòi hỏi của mình. Có bao giờ chúng ta tự ý từ chối một món ăn mà mình ưa thích? Có bao giờ chúng ta đã dùng những đồng tiền của mình để làm phúc bố thí cho người nghèo hay góp phần vào những công việc chung? Trong bữa cơm, đừng kêu ca vì món ăn không hợp khẩu, hãy có thái độ bác ái và lịch sự nơi bàn ăn vì ăn trông nồi ngồi trông hướng, và nhất là hãy biết chia sẻ cơm áo cho những người túng cực, vì lá lành đùm lá rách, miếng khi đói, gói khi no.

Sau cùng thứ tư, đó là hãy làm chủ tình cảm.

Khi gặp phải những chuyện buồn phiền, chúng ta hãy cố nén bực tức, để không gắt gỏng hay giận hờn đối với người khác, vì giận quá thì mất khôn, nóng quá thì hỏng việc. Kinh nghiệm cho hay: không thương mà cố gắng để thương, thì rồi sẽ thương lúc nào cũng không biết. Không vui mà cứ cố gắng mỉm cười, thì rồi sẽ vui lúc nào cũng chẳng hay.

Đối với những người chúng ta có ác cảm, hãy tha thứ và đi bước trước đến với họ bằng những cử chỉ cảm thông, chắc chắn chúng ta sẽ xích lại gần nhau hơn.

Phải uốn bản thân mình vào một khuôn mẫu, thì mới thắng được bản tính tự nhiên luôn hướng chiều về tội lỗi. Và như vậy, phải biết từ bỏ mình, thì mới có thể dễ dàng bước theo Chúa.

 

29. Đau khổ

Một phản lực cơ ở cao độ 10 km từ New York hướng về Miami, 150 km bắc Wilmington và bắc California, cửa phòng lái bỗng mở tung, người ta thấy một cô chiêu đãi viên và một gã thanh niên đứng sau nàng kề dao găm vào lưng nàng, chàng thanh niên yêu cầu: “Hãy cho tôi về Havana”. Trầm tĩnh, viên phi công nói với gã thanh niên: “Sao vậy, có gì thế nói cho chúng tôi nghe”.

Người không tặc trẻ tuổi tiết lộ: “Chàng chán nản mọi cái, thất vọng với mọi người, chàng thi rớt, cha mẹ không lo được cho chàng, chàng sợ đi quân dịch”. Họ nói qua nói lại cả giờ đồng hồ mà không thuyết phục được gã thanh niên.

Viên phi công, đại úy Harry Davis, một người có đức tin, ông cầu nguyện xin Chúa giúp ông nói điều ông phải nói và làm điều ông phải làm. Ông hỏi gã thanh niên: “Chúa Giêsu thì sao? Người đau khổ hơn hết mọi người, Người bị săn đuổi, bị bắt bớ và bị đóng đinh vào thập giá. Bạn nghĩ sao khi so sánh đau khổ của bạn với của Chúa?”

Đánh động gã thanh niên, chàng nghe lời viên phi công, bật khóc và buông con dao xuống.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng “Người phải chịu đau khổ”. Vâng! Người chịu đau khổ chừng nào. Người cũng nói với chúng ta rằng, bạn và tôi phải chịu đau khổ.

Có người quan niệm sai lầm rằng, vì Chúa Giêsu, trong lúc sinh thời trên mặt đất, Người đã cứu giúp nhiều người đau khổ: Người mù, kẻ què, người điếc, kẻ phong cùi, người bất toại… và Người làm cho kẻ chết sống lại nữa. Người có thể và Người sẽ cất khỏi cuộc sống chúng ta mọi đau khổ.

Nhưng ngược lại, Người nhấn mạnh rằng chúng ta phải đau khổ. Biết bao người phải hoặc chịu đau khổ hằng ngày như nhức đầu, đau lưng, đau tim. Hằng ngày họ chịu khốn khổ nơi thân xác hoặc tâm hồn hay cả hồn lẫn xác. Hằng ngày họ mang thánh giá nặng, hằng ngày họ bị dằn vặt với những đau khổ thể xác, những lo âu trong tâm hồn. Họ không cần thánh giá đặc biệt nào khác, vì thánh giá đã sẵn trên vai họ. Điều họ cần là mang thánh giá bằng việc dâng lên những đau khổ hằng ngày với những đau khổ của Chúa Kitô. Đón nhận đau đớn trong tinh thần của Người. Quả thật những đau khổ hằng ngày trở nên quí giá khi họ kết hợp với đau khổ của Chúa Kitô. Hãy để đau khổ của bạn trong Chén Thánh với Máu Châu Báu của Chúa Kitô và dâng lên Cha trên trời.

Mặt khác, nhiều người ít phải đau khổ. Họ có sức khỏe tốt; họ không phải lo âu. Họ có việc làm lương cao, có nhà rộng, gia đình vui vẻ. Làm sao những người ấy vác thánh giá hàng ngày? Có một cách là họ làm những gì để có thể giúp những người đau khổ như Chúa, họ phải hy sinh thời gian, năng lực và tiền của để giúp những người đói khát, bệnh tật, túng thiếu và xấu số. Họ phải làm, nếu họ muốn được gọi là môn đệ Chúa Kitô.

Đừng lẩn trốn khi đau khổ tới như chàng không tặc trẻ tuổi. Hãy nhớ đến những gì Chúa Giêsu trải qua như chúng ta nhớ đến trong mỗi Thánh lễ. Hãy vác thánh giá như Người, và với sự trợ giúp của Người. Người vác thánh giá vì Người yêu chúng ta. Chúng ta hãy vác thánh giá vì Người yêu chúng ta, chúng ta hãy vác thánh chúng ta vì yêu Người.

 

30. Con Thiên Chúa

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Câu hỏi Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay đã không ngừng vang dội suốt hơn 20 thế kỷ qua. Câu hỏi ấy vang đến chúng ta và nó cũng chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay: Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi này đã được người ta trả lời bằng nhiều cách khác nhau, mỗi người một vẻ, một ý kiến, một quan điểm tùy theo quan niệm và hoàn cảnh cuộc sống của họ.Chẳng hạn có người nói: Chúa Giêsu là một mẫu người tuyệt vời đã đến cứu chúng ta, nhắc cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Người khác nói: Chúa Giêsu là một người quyến rũ nhất, dễ thương nhất và được yêu nhiều nhất. Có người lại nói: Chúa Giêsu là một người rất sống động, là một người bạn rất thân trong cuộc sống. Và có người nói: Chúa Giêsu là người đã hiến thân cho con người. Ngài đã hợp nhất mọi người trên mặt đất, Ngài đã bảo họ hãy nhìn nhận nhau như anh chị em… Câu trả lời nào cũng đúng, nhưng cho dù Chúa Giêsu là ai chăng nữa nếu Ngài không phải là Đấng Kitô của Thiên Chúa thì chúng ta không cần lưu tâm đến Ngài, quá lắm chúng ta cũng chỉ coi Ngài là một người phi thường, một vĩ nhân của nhân loại mà thôi. Nhưng không phải thế, quả thực Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Đây là một quả quyết của lòng tin. Chúng ta hãy tìm hiểu: Những người đương thời với Chúa Giêsu đã coi Ngài là ai? Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là gì? Chúng ta có phải là con Thiên Chúa không? Như vậy chúng ta phải sống niềm tin đó thế nào?

Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, đứng trước con người Chúa Giêsu, các người đương thời với Ngài đã phải kinh ngạc, ngỡ ngàng. Tại sao vậy? Vì họ không xếp được Ngài vào hạng người nào theo ý họ. Có thể họ coi Ngài là một nhà làm phép lạ thôi chăng? Nhưng những nhà làm phép lạ có được Thiên Chúa ban cho quyền năng thì là để thi hành một sứ mệnh rõ rệt, vậy sứ mệnh của Chúa Giêsu là gì? Hay phải chăng Ngài là một ngôn sứ mới, nối dòng những người thời xưa Thiên Chúa đã sai đến? Nhưng vào thời đó người ta không chờ đợi bất cứ một ngôn sứ nào cho bằng chờ đợi một ngôn sứ lớn, là người sẽ loan báo thời đại của Đấng Mêsia đã đến. Vào lúc người thời đó nóng lòng trông đợi như thế thì làm sao xếp được một chỗ đứng cho con người Chúa Giêsu, tuy Ngài quyến rũ thực, tuy Ngài làm nhiều việc khiến người ta không thể hiểu được, nhưng khó tưởng tượng Ngài có thể đóng vai trò của một Đấng Mêsia. Bởi vì Đấng Mêsia mà người Do thái trông đợi phải là người nắm trong tay mọi thế lực, nhất là về mặt chính trị và quân sự. Vì thế, đối với họ, Chúa Giêsu chẳng có gì giống như một ngôn sứ lớn, lại càng không thể tưởng tượng được Ngài đến với tư cách là Đấng Mêsia. Hơn nữa, Chúa Giêsu lại là con bác thợ mộc Giuse, con bà Maria, thì làm sao có thể là Đấng Thiên Sai được? Nhưng điều đó cũng chưa quan trọng, sinh quán của Ngài mới là chuyện quan trọng hơn. Chúa Giêsu là người xứ Galilê. Đối với người Do thái thời đó, làm sao một người Thiên Chúa sai đến lại có thể xuất thân từ cái xứ ô uế đó được? Chúng ta biết, Galilê có nửa số dân là ngoại giáo, không phải là thánh địa thật, dân xứ đó thường sống chung đụng với người ngoại giáo, nên nguồn gốc của Chúa Giêsu thật đáng nghi ngờ. Như thế làm sao ông Giêsu có thể là ngôn sứ, là Đấng Mêsia được?

Vì thế, trong một lần nói chuyện thân mật giữa thầy trò, Chúa Giêsu hỏi các ông về dư luận quần chúng đối với Ngài: “Anh em nghe thiên hạ bảo Thầy là ai?”Bởi vì các ông có dịp trà trộn với quần chúng đã nghe biết nhiều dư luận, cho nên các ông lần lượt trình bày với Chúa: có kẻ bảo Thầy là Gioan tẩy giả, kẻ khác nói là Êlia, kẻ khác nữa lại nói chung chung là một ngôn sứ nào đó. Nhưng Chúa hỏi như vậy là để dọn đường cho câu hỏi quan trọng, trực tiếp liên hệ đến các môn đệ và đến mức độ đức tin của các ông đối với Chúa. Chúa hỏi: “Thế còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô liền thưa thay cho các bạn: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu cho lời tuyên xưng đó là đúng nhất, tuyệt vời nhất và đầy đủ nhất. Thực vậy, Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Theo quan niệm của người Do thái, Đấng Cứu Thế cũng có tên là Kitô, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ, mang lại độc lập tự do cho xứ sở, khuất phục dân ngoại và đem họ về với Giavê Chúa họ. NHưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô không phải theo nghĩa đó. Ngài được Thiên Chúa sai đến thực sự như Ngài tuyên bố: “Cha Ta, Đấng đã sai Ta đến”, “Ta từ trời xuống để làm theo ý của Đấng đã sai Ta”. Nhưng Ngài đến để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, Ngài đến để khuất phục các dân ngoại nhận biết Thiên Chúa và thiết lập một nước mới gồm những kẻ tin Ngài và lãnh nhận phép rửa tội. Nước Ngài là nước tình yêu, nước hòa bình và thánh thiện. Nước ấy không chỉ hạn chế nơi người Do thái, nhưng là nước phổ quát khắp trần gian. Nghĩa là không giới hạn trong một lãnh thổ nào, không xây dựng trên sức mạnh quân sự nhưng từ trong lòng những người thiện chí. Chính vì thế, Tin Mừng Matthêu còn cho biết, sau câu tuyên xưng của Phêrô, Chúa nói ngay: “Không phải huyết nhục đã cho anh biết điều này, nhưng là Cha Thầy ở trên trời đã cho anh biết”.

Như nói ở trên: tất cả những ai tin Chúa Giêsu và lãnh nhận phép rửa tội sẽ được gia nhập vào nước của ngài là Giáo Hội. Họ sẽ là con Thiên Chúa và là anh em với Ngài. Như vậy, tất cả chúng ta đều là con Thiên Chúa. Đây không phải là một tước hiệu suông, nhưng là một thực tại linh động, biến đổi sâu xa đến cốt tủy linh hồn chúng ta. Quả thực, trong việc giáng thế làm nhân trần như chúng ta, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo bản tính, đã cho phép chúng ta trở thành em Ngài, và đồng thời trở thành con Thiên Chúa.

Tóm lại, chắc chắn mọi người chúng ta đều tin vững mạnh Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa. Vì niềm tin đó tất cả chúng ta đều là Kitô hữu và cũng là con của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta phải sống xứng đáng với tước hiệu cao quí đó, nghĩa là chúng ta phải biết sống theo lời Chúa dạy. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều biết sống theo lời Chúa để rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau ở cõi sống hạnh phúc bất diệt.

 

31. Đấng Kitô

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe thuật lại sự kiện Chúa Giêsu gặp gỡ riêng với các môn đệ, sau một thời gian hoạt động công khai, để hỏi các ông về ý kiến của dân chúng nói Người là ai, và sau đó Chúa Giêsu muốn chính các ông là những người đã được sống gần gũi thân tình với Người, nói lên nhận định của các ông về Người: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Và rồi xuyên suốt dòng lịch sử câu hỏi này cũng luôn đánh động nhiều người và đặc biệt là chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay.

Vấn đề căn tính đích thực của Chúa Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời rao giảng và các hoạt động của Người.

Gioan Tẩy giả từ trong ngục đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có thật là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác?”

Những khách dự tiệc ở nhà ông Simon, Biệt phái đã xầm xì: “Ông này là ai mà lại tha tội được?”

Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy Người dẹp yên sóng gió: “Người này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió phải tuân lệnh?”

Chính vua Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan Tẩy giả, cũng thắc mắc: “Người này là ai mà trẫm nghe nói nhiều về ông như thế”.

Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa thành Naim được sống lại đã đồng thanh tung hô: “Một ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta”.

Một ít người cho là: “Đó là ông Gioan Tẩy giã từ cõi chết sống lại”. Người khác lại nói: “Ông Êlia đã xuất hiện” hay “đó là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”.

Cuộc thăm dò dư luận này cho thấy mặc dù chưa có lời giải đáp chính xác về căn tính đích thực của Chúa Giêsu, nhưng các đám đông đều đánh giá Đức Giêsu là một con người tôn giáo rất vĩ đại, một ngôn sứ, một “người phát ngôn” của Thiên Chúa.

Sau khi đã biết các ý kiến của dân chúng, Đức Giêsu mới quay sang các môn đệ và hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”

Ở đây ta thấy Đức Giêsu là một nhà sư phạm tài tình. Người đã tăng cấp cho các câu hỏi. Trước hết, Người đặt câu hỏi không đưa họ vào chiều sâu để họ dễ trả lời: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì bảo là Gioan tẩy giả, …” Lặp lại các ý kiến của người khác thì qúa dễ, chắc hẳn chẳng cần phải suy nghĩ gì, vì những quan niệm đó không liên quan gì đến các ông. Nhưng khi Chúa Giêsu hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Đây là một câu hỏi không dễ gì trả lời ngay được. Câu hỏi này mang chiều kích cá nhân. Nó đi sâu vào nội tâm của người đó. Nó đòi hỏi nơi người đó phải chọn cho mình một quan điểm, và hơn thế nữa là dấn thân theo quan điểm đó.

Chính vì thế mà khi Đức Giêsu nêu lên câu hỏi về ý kiến của dân chúng thì các môn đệ giành nhau trả lời. Nhưng câu hỏi động đến bản thân các ông, đòi hỏi các ông một lập trường thì các ông lại e dè. Và như bài Tin Mừng thuật lại thì chỉ một mình Phêrô lên tiếng trả lời Đức Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và sai đến trần gian để thực hiện chương trình cứu độ.

Câu trả lời của Phêrô vượt xa các câu trả lời của đám đông. Phêrô nhận ra nơi Đức Giêsu điều mà chính Ngài đã loan báo ngay trong diễn từ đầu tiên ở Hội đường Nazareth: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…”

Sự xức dầu của Thần khí, sự xâm nhập của Thần khí trên Đức Giêsu chúng ta không thể thấy được. Vì thế căn tính sâu xa của Ngài không phải là một điều gì có thể dùng lý trí mà suy diễn được. Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận dưới thể thức của sự mạc khải. Thực vậy, khi Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho các môn đệ cũng là dịp Chúa Giêsu muốn tỏ cho các ông biết Ngài là ai!

Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ năm xưa vẫn luôn tồn tại theo thời gian. Người Kitô hữu hôm nay cũng được mời gọi để trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn chúng ta, chúng ta nói Đức Kitô là ai?”

Chúng ta có thể trả lời theo hai cách:

Cách thứ nhất là trả lời như Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Hay chúng ta có thể lặp lại lời của kinh tin kính: “Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô con một Thiên Chúa…” Trả lời như vậy rất đúng. Nhưng sợ rằng đó là một câu trả lời lý thuyết, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách vở như thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là xác tín của bản thân.

Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm của bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc, cảm nghiệm như thế nào thì nói lên cách trung thực như vậy. Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người đều có câu trả lời riêng của mình. (cho vài ví dụ cụ thể)

Mặc dù mỗi người đều có câu trả lời của riêng mình, nhưng xét cho cùng Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Người là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ lạc hướng, mất hết ý nghĩa.

Thực vậy, cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều tầng lớp nông sâu khác nhau. Bên cạnh những ưu tư, toan tính về cuộc sống vật chất thường ngày là những mơ ước thầm kín, những khát vọng sâu xa liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta nhận ra mình vẫn mơ ước, ít là một cách mơ hồ, những gì là chân thật, toàn thiện, vĩnh cửu. Vấn đề đặt ra là ai có thể thỏa mãn cho chúng ta những ước mơ thầm kín và thâm sâu đó?

Chắc hẳn chỉ có Đấng đã tự giới thiệu mình chính “là Đường, là Sự thật, và là Sự Sống”, mới có thể đáp ứng được.

Câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ và cũng như cho chúng ta không phải để chúng ta áp đặt cho Ngài một căn tính nhưng qua sự kiện đó, Ngài muốn tỏ cho chúng ta biết Ngài chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến.

Ước chi lời xác tín xưa kia của Phêrô trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.

 

32. Người là ai?

Sau một thời gian thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó, nhất là sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, bấy giờ trong bầu khí ấm áp Chúa Giêsu muốn biết cảm nhận của dân chúng về mình. Người hỏi các ông: “Dân chúng nói Thầy là ai?”. Đồng thời, Người cũng muốn biết các Tông đồ cho mình là ai. “Người lại hỏi: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Cùng một câu hỏi nhưng đã có nhiều cảm nhận khác nhau. Các ông thưa: Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại…. Còn ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Thánh Phêrô đã nói lên bản tính thật của Chúa Giêsu. Vì yêu thương, mà Thiên Chúa đã ban chính Con Một mình xuống thế làm người trong thân phận thấp hèn để chịu khổ hình thập giá hầu cứu chuộc chúng ta. Có thể có những lúc chúng ta cảm thấy khó chịu hay mặc cảm vì Chúa của mình. Người có dư khả năng dùng quyền lực để thực hiện chương trình cứu độ chứ. Để rồi Đấng chúng ta tôn thờ phải là một Đấng oai quyền. Đằng này chúng ta lại tôn thờ một Đấng chịu đóng đinh một cách tủi nhục trên cây thập giá.

Có một câu chuyện kể rằng: “Ngày nọ, một cậu bé mời mẹ tham dự buổi họp phụ huynh đầu tiên ở trường tiểu học. Điều cậu bé sợ đã thành sự thật, mẹ cậu bé nhận lời. Đây là lần đầu tiên bạn bè và giáo viên chủ nhiệm gặp mẹ cậu bé và cậu rất xấu hổ về vẻ bề ngoài của mẹ mình. Mặc dù cũng là một người phụ nữ đẹp, có một vết sẹo lớn che gần toàn bộ mặt bên phải của cô. Cậu bé không bao giờ muốn hỏi mẹ mình tại sao bị vết sẹo lớn vậy.

Vào buổi họp mặt, mọi người có ấn tượng rất đẹp về sự dịu dàng và vẻ đẹp tự nhiên của người mẹ mặc cho vết sẹo đập vào mắt, nhưng cậu bé vẫn xấu hổ và giấu mình vào một góc tránh mặt mọi người. Ở đó, cậu bé nghe được mẹ mình nói chuyện với cô giáo. “Làm sao chị bị vết sẹo như vậy trên mặt?” Cô giáo của cậu hỏi. Người mẹ trả lời, “Khi con tôi còn bé, nó đang ở trong phòng thì lửa bốc lên. Mọi người đều sợ không dám vào vì ngọn lửa đã bốc lên quá cao, và thế là tôi chạy vào. Khi tôi chạy đến chỗ nó, tôi thấy một xà nhà đang rơi xuống người nó và tôi vội vàng lấy mình che cho nó. Tôi bị trúng ngất xỉu nhưng thật là may mắn là có một anh lính cứu hỏa đã vào và cứu cả hai mẹ con tôi.” Người mẹ chạm vào vết sẹo nhăn nhúm trên mặt. “Vết sẹo này không chữa được nữa, nhưng cho tới ngày hôm nay, tôi chưa hề hối tiếc về điều mình đã làm. “Đến đây, cậu bé chạy ra khỏi chỗ nấp của mình về phía mẹ, nước mắt lưng tròng. Cậu bé ôm lấy mẹ mình và cảm nhận được sự hy sinh của mẹ dành cho mình. Cậu bé nắm chặt tay mẹ suốt cả ngày hôm đó.

Tấm lòng của người mẹ này phải chăng phần nào diễn tả chính tấm lòng của Chúa Giêsu dành cho con người chúng ta. Vậy chúng ta hãy chân thành cảm tạ Chúa Giêsu. Chúng ta hãy sống trong tâm tình biết ơn Người bằng cách thực hiện những lời Người dạy. Đó là điều làm đẹp lòng Chúa nhất.

 

33. “Người có đạo” – PM. Cao Huy Hoàng

Bài Tin Mừng hôm nay Lc 9,18-24, sau khi Chúa Giêsu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?”, Chúa lại hỏi: “Các con bảo Thầy là ai?”… Và Thánh Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa.”

Khi tuyên tín như thế, hẳn là ông Phêrô chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Đấng Messia, Đấng được Xức Dầu, gọi là Kitô. Vì thế Chúa đã giải thích thêm về “Đức Kitô của Thiên Chúa” rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Chúa Giêsu còn công khai nói với mọi người: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.

Như vậy, khi tuyên tín vào Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là phải mặc lấy Đức Kitô, sống như Ngài đã sống, suy nghĩ như ngài đã suy nghĩ, yêu như ngài đã yêu, và chấp nhận con đường khiêm hạ, từ bỏ, công chính, hiến thân, phục vụ, chết và sống lại, rồi cùng Ngài về trời. Nói cách khác là: phải nên đồng hình đồng dạng với Ngài, thì lời tuyên tín kia mới là lời tuyên tín giá trị.

Chúa cũng đã hỏi ông bà chúng ta câu này. Và cách nào đó, ông bà đã trả lời: “Chúa Giêsu là Đạo của chúng con”, “chúng con là kẻ có đạo”.

Chỗ tôi, trải qua 20 năm, 1975-1995, bà con nghèo khổ quá, bởi lúa bắp khoai chỉ được một vụ trong năm. Năm nào có mưa khá, thì còn có cái thu hoạch. Năm nào ít mưa là coi như công toi. Không có tiền để lo cho con cái, nhiều cha mẹ đành đi vay mượn, rồi chờ đến mùa lúa thì đong lúa cho người ta. Thế mới có chuyện “bán lúa non” mà “không có lúa già để trả!” Đành mắc nợ triền miên. Người mua lúa non, đong lúa già cũng phải kiếm cho mình phần lợi, nên không thiếu cảnh đong lúa mà người “bán lúa non” xót xa rơi lệ. Họ sàng sảy năm lần bảy lượt để chỉ lấy những hạt lúa chắc. Không một hạt lép nào có thể chen vào lẫm lúa họ. Người bán lúa non đành phải hốt đống lúa lép về mà sàng sảy lại để kiếm những hạt lúa đưng mà phơi, giã, nấu cháo cho con. Trong xóm tôi chỉ có một người mua lúa non tốt bụng. Đó là ông bà A. Ông luôn dặn bà: “Đừng mua quá rẻ của người ta. Người ta trả sao lấy vậy. Mình là người có đạo đó, nghe bà.”

Tôi vẫn nghĩ rằng câu nói “mình là người có đạo” của ông bà ta xưa, tuy rất đơn sơ mộc mạc, nhưng lại là một ý thức cơ bản, một đức tin sống động, một kim chỉ nam chính xác cho hành trình đức tin nơi dương thế.

Một ý thức cơ bản: “Mình là người có đạo”. Ngữ “người có đạo” lúc ấy dành cho người công giáo, cho các Kitô hữu, để phân biệt với từ “người lương” dành cho những người theo các đạo khác, và hiểu chữ lương là lương thiện. Tôi còn nhớ trong sách bổn ngày xưa có câu: “Có một đạo rất chính rất thật ấy là Đạo Thánh Đức Chúa Trời.” Và khi sử dụng từ “mình là người có đạo” cho một người và “mình con nhà có đạo” cho cả dòng họ, thì hiểu là: “Mình đã được rửa tội, là Kitô hữu, là người Công giao, thuộc dòng dõi của Chúa Giêsu Kitô, của Con Thiên Chúa và nhờ Chúa Giêsu Kitô, được ơn gọi là nghĩa tử của Thiên Chúa.” Ý thức ấy vốn là ý thức cơ bản nhất của một “người có đạo”. Và chính ý thức ấy đã hướng dẫn, chỉ đạo mọi tư tưởng lời nói việc làm của ông bà ta xưa.

Một Đức Tin sống động: Bởi vậy, đừng chê ông bà ta ít học giáo lý, cũng đừng xem vốn giáo lý của mình thời nay là khá, là nhiều, nhưng hãy xem cách “sống giáo lý” của ông bà thời ấy.

Từ ý thức “mình là người có đạo”, Mẹ tôi thường dặn dò: “Đi đâu, ở đâu, làm việc gì, cũng phải nhớ mình là người có đạo nghe con.” Sau này, chúng tôi mới hiểu là có ở đâu, làm gì, thì cũng phải giữ lề luật Chúa, giữ Lời Chúa cho nên, cũng phải “đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô”. Cha thì hay dùng lời Thánh Phaolô mà dặn: “Dầu khi ăn, dầu khi uống, dầu khi làm việc gì, cũng phải làm cho sáng danh Chúa.” Khi cha cho ý kiến về việc gì thì ý kiến cuối cùng vẫn là “nhưng phải xem coi có sáng danh Chúa không nghe con, không được sáng danh mình”.

“Mình là người có đạo” hẳn phải từ bỏ những tư tưởng, lời nói, việc làm không xứng với danh xưng quý giá ấy, hẳn phải từ bỏ “cái tôi” của mình để cho danh Chúa được cả sáng. Khi anh em chúng tôi nói, làm điều gì sai quấy, cha thường trách yêu: “Con quên mình là người có đạo sao?” Khi chị tôi chuẩn bị lập gia đình, Mẹ kể cho chị nghe câu chuyện Tobia và Sara: Tobia và Sara tâm sự: “Mình con nhà có đạo, không thể lấy nhau như lương dân.”

Kim chỉ nam chính xác: “Mình là người có đạo” như kim chỉ nam chính xác cho hành trình đức tin chúng ta. Bởi vì, khi đã tháp nhập vào Đức Giêsu Kitô là “Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, người có đạo có Con Đường để đi, con đường Thật bảo đảm một Sự Sống Thật thay cho những con đường gian trá chỉ đưa con người ta đến sự chết ngàn thu. Người có đạo là người đi Con Đường của Chúa Giêsu: con đường khiêm nhượng, từ bỏ, chấp nhận khổ đau, thập giá, con đường phục sinh và lên trời, và theo con đường ấy mà về trời. Đó là Sự Thật vĩnh cửu, thay cho sự thật về kiếp con người mong manh tàn lụi. Tôi vẫn mãi nghĩ rằng ngày ấy ông bà chúng ta chưa có văn minh, chưa có phương tiện, còn ít văn hoá, nhưng cái gọi là “Văn hoá Kitô giáo” thì có nhiều hơn chúng ta hôm nay. Bởi, ông bà đã chọn Chúa Giêsu Kitô và theo đúng con đường của Chúa Giêsu Kitô đã đi:

Người có đạo không chối đạo, nhưng xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ.

Người có đạo không oán ghét, trả thù, nhưng yêu thương hết mọi người.

Người có đạo không xảo trá điêu ngoa, lường gạt, nhưng thực thà chân chất.

Người có đạo không sống cách vô luân lý, không tham danh lợi dục nhưng sống đúng phẩm hạnh của người con Cha trên trời.

Người có đạo không ích kỷ, hẹp hòi, không thu quén cho mình nhưng rộng lượng, quảng đại mong phần lợi cho anh em.

Và người có đạo không tham nhũng, hối lộ, thanh trừng nhau kiểu quan to, trộm cắp giết người kiểu dân nhỏ, không lấy quyền mà hiếp đáp, ăn chơi, trác táng, cùng không hoang đàng, phung phí… nhưng là người sống đời công chính của Đức Giêsu.

Người có đạo không toa rập bán nước, nhưng yêu quê hương và bảo vệ tổ quốc.

… … …

Người có đạo không làm hoen ố hình ảnh của Thiên Chúuacute;a, nhưng luôn là hoạ ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi xinh đẹp sáng láng thánh thiện.

Hôm nay, Chúa cũng đang hỏi chúng ta mọi lúc mọi nơi – “Các con bảo Thầy là ai?” – để chúng ta xác minh lại niềm tin của mình rằng “Thầy là Đức Giêsu Kitô, là Đạo của chúng con”, và Ngài cũng đang bảo chúng ta sống đức tin ấy cách sống động như ông bà ta xưa: “Mình là người có đạo”.

Xin cho ông bà yên tâm, xin cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam vui mừng vì dòng dõi “con nhà có đạo” Việt Nam thời nay đang bước theo Con Đường của Chúa Giêsu Kitô, noi gương đức tin sống động của ông bà, của các Thánh Tử Đạo.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhớ mình là “người có đạo” trong mọi lúc, mọi nơi, để vì yêu mến Đạo, vì yêu mến Chúa Giêsu, mà chúng con có thể từ bỏ tất cả những gì không làm đẹp lòng Chúa, không làm đẹp danh Chúa và sẵn sàng làm tất cả những gì có thể, cho vinh danh Chúa. Amen.

 

34. Anh hùng

Ngay sau khi Phêrô tuyên bố rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đức Giêsu nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…” Ý tưởng về một Đấng Mêsia đau khổ là một điều vô nghĩa đối với các tông đồ. Đấng Mêsia phải là một anh hùng vĩ đại đi chinh phục và vinh quang đang chờ đợi. Đấng Mêsia dĩ nhiên phải giành được vinh quang, nhưng không phải là vinh quang trần thế. Và Đức Giêsu sẽ trở thành một anh hùng. Nhưng không phải là loại anh hùng mà các tông đồ đã hình dung ra.

Diễn viên Christopher Reeve được nhớ đến nhiều nhất trong vai diễn Siêu Nhân. Ông kể lại khi bộ phim Siêu Nhân đầu tiên trình chiếu, ông đã có hơn mười cuộc phỏng vấn để cổ động cho bộ phim. Câu hỏi mà người ta thường hỏi ông là: “Một anh hùng là gì?” Ông nhớ đã đáp lại câu hỏi ấy dễ dàng, và ông đã lập lại câu trả lời trơn tru ấy nhiều lần. Theo ông, một anh hùng là một người hoàn thành một hành động can đảm mà không xét đến những hậu quả. Một người lính bò ra khỏi chiến hào để kéo một đồng đội bị thương dẫn đến chỗ an toàn, một tù nhân chiến tranh không ngừng tìm cách trốn trại giam dù biết rằng mình sẽ bị xử tử khi bị bắt. Nhưng rồi một việc đã xảy ra với Reeve làm thay đổi hoàn toàn quan điểm của ông về ý nghĩa của một anh hùng. Tháng 5 năm 1995, ông đã bị ngã ngựa, tai nạn này làm ông bị tê liệt từ cổ xuống. Giờ đây, ông nghĩ rằng anh hùng là một cá nhân bình thường tìm được sức mạnh để tiếp tục sống dù có đầy dẫy mọi trở ngại. Đó là lòng can đảm thật, và thật sự có sức mạnh. Khi còn đóng vai Siêu Nhân, Reeve được nhiều người xem như một anh hùng. Nhưng điều đó quá dễ dàng. Ông có sức khỏe hoàn hảo. Tuy nhiên, như chính ông nói: “Siêu Nhân chỉ là một vai diễn. Nhưng đó là cuộc đời thật, ở nơi nào mọi sự đều tranh đấu”. Tinh thần lạc quan và lòng can đảm mà Reeve thể hiện khi học cách đương đầu với sự tàn tật của ông cũng như lòng quảng đại mà ông dành cho những người ngồi xe lăn khác làm ông chinh phục được nhiều người hâm mộ mới.

Chúng ta có cảm tưởng rằng mọi việc đối với Đức Giêsu khác hẳn. Vì dù là Con Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô nói với chúng ta, khi đảm nhận thân phận con người, Người gạt bỏ mọi quyền lực và vinh quang vẫn thuộc về Người, vì Người là Con Thiên Chúa. Sau cùng vinh quang đã đến với Người là vinh quang Người đạt được bằng một đời sống vâng lời Chúa Cha, một đời sống kết thúc trong đau khổ, sỉ nhục và cái chết. Chính cuộc khổ nạn và cái chết đã đưa Người vào vinh quang. Không có sự thành tựu nếu không có sự đau khổ và hy sinh.

Người Kitô hữu không tìm kiếm đau khổ. Đức Giêsu không tìm kiếm đau khổ; vườn Ghêtsêmani làm rõ điều đó. Nhưng đau khổ chắc chắn là một phần đời sống của Đức Giêsu. Các môn đệ của Người sẽ đau khổ vì theo đuổi những giá trị mà Người đã theo đuổi, và ưu ái hạng người mà Người đã ưu ái.

 

35. Hãy đổi cung!

Một câu truyện kể về một nhạc sĩ chơi đàn violin, và anh ta có một cây đàn quí giá nhất ở trên thế giới. Một lần trong buổi trình diễn đại nhạc hội, anh ta bỗng dưng cầm lấy cây đàn và đập tan nó ra thành từng mảnh. Khán giả tất cả đều bỡ ngỡ không hiểu vì sao. Sau đó, nhạc sĩ đã lấy lại bình tĩnh và nói, “Xin quí vị đừng hốt hoảng. Cây đàn violin tôi vừa mới đập là cây đàn dổm chỉ đáng có mấy đồng thôi. Bây giờ tôi sẽ chơi với cây đàn Stradivarus quí giá của tôi.” Sau đó, nhà nhạc sĩ đã chơi lại khúc nhạc anh vừa mới chơi với cây đàn rẻ tiền. Đa số khán giả không thấy có gì khác biệt giữa hai cây đàn cả. Nhạc sĩ violin lại phát biểu, “Âm nhạc không phải hệ tại ở nhạc cụ mà là ở chỗ người chơi nó.”

Không cần biết các bạn có giá trị bao nhiêu, giầu hay nghèo, ở bất cứ chỗ nào, các bạn đều có thể tạo nên những âm nhạc tuyệt vời nếu bạn biết đặt mình trong vòng tay của Thiên Chúa. Hãy để cho ý định của Thiên Chúa được vang lên qua các bạn, và các bạn sẽ thấy rằng mình là một nhạc cụ có thể vang lên những điệu du dương. Tuy nhiên, Thiên Chúa không thể dùng cuộc đời của các bạn nếu các bạn không biết phó mình trong tay Ngài.

Tất cả chúng ta đều mong muốn Thiên Chúa làm cho chúng ta vang lên những cung điệu hay và tinh tuyền trong tâm hồn và thể xác. Tất cả chúng ta đều mong muốn Thiên Chúa làm cho cuộc sống của chúng ta được cảm thấy an toàn trong sự hiểu biết về con người của chúng ta, tại sao chúng ta là chúng ta, và chúng ta đang đi đâu trong cuộc sống. Tất cả chúng ta đều mong muốn sự bình an thật sự trong tâm hồn mà chỉ có Thiên Chúa mới ban cho chúng ta thật sự. Tuy rằng nhiều người chúng ta đến nhà thờ và ca hát ngợi khen Chúa, nhưng Chúa đó là chúa của tiền bạc, chúa đồ vật, và chúa của những khoái lạc. Sự tách biệt này sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe, sự quan hệ, tình cảm, và lớn lên của chúng ta cho tới mức hoàn mỹ. Chúng ta càng trở nên hồi hộp, và mối lo âu sẽ làm cho chúng ta mất ăn, mất ngủ, và từ từ cuộc sống của chúng ta sẽ đi vào chỗ bất bình thường. Chúng ta sẽ cảm thấy vô dụng, bất lực, và không còn có thể tự chủ được mình nữa. Chúng ta sẽ không còn có thể nào nhận ra con người của mình nữa. Sau cùng, chúng ta không biết có ai sẽ có thể nói cho chúng ta biết chúng ta là ai không và tại sao chúng ta sống và chết.

Thiên Chúa, Cha chúng ta, nguồn mạch mọi sự sống, là Thiên Chúa yêu thương hằng mong muốn chúng ta biết chúng ta là ai. Ngài mong muốn đưa chúng ta đến chỗ hoàn thiện. Ngài sẽ đối xử với chúng ta như thế, tuy nhiên với một điều kiện đó là chúng ta không được có một chúa nào khác ngoài Ngài.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ Ngài rằng: “Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8:35). Chữ sự sống ở đây theo tiếng Hy lạp có nghĩa là linh hồn và tinh thần của chúng ta. Ngài nói hãy đánh mất đi mạng sống mình: có nghĩa là dâng cho Chúa mạng sống mình. Hãy dâng cho Chúa linh hồn của mình trong Chúa Thánh Thần. Hãy trao dâng sự sống mình trong lề luật của Chúa. Hãy dâng cho Chúa sự sống mình và các bạn sẽ cứu được nó.

Có lẽ điều đó không hợp lý với đa số chúng ta. Điểm khiếm khuyết chính là ở chỗ sự đáp trả của chúng ta cần phải làm với một lòng nhiệt thành và gấp rút. Dĩ nhiên, chúng ta muốn đẩy xa sự lo lắng hồi hộp, bất lực, và vô dụng. Dĩ nhiên, chúng ta mong muốn mối liên hệ của chúng ta với người khác được cởi mở vui vẻ. Dĩ nhiên, chúng ta muốn nhận ra con người thật sự của mình và lớn lên với tất cả năng lực của chúng ta. Điều đó là tất nhiên! Tuy nhiên, trong tâm hồn chúng ta còn vang lên câu, “Lạy Chúa con, để chờ lúc khác đi, bây giờ con còn đang bận rộn với nhiều công việc.”

Nhiều người trong chúng ta giống như người đàn ông rất ghét công việc của mình làm, nhưng cố gắng làm cho tới 30 năm và chờ ngày về hưu để bắt đầu sống cuộc sống mà mình thích. Các bạn ơi, Chúa Giêsu đang kêu gọi chúng ta đi vào trong cuộc sống ngay bây giờ! Chúa Giêsu đang kêu gọi chúng ta rằng trong khi phải vật lộn với cuộc sống, trong công việc làm ăn, trong mối liên hệ, trong sự đau khổ, trong sự vui mừng, trong nước mắt, trong nụ cười, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện thần linh của Ngài, nếu chúng ta biết mở rộng tâm hồn mình cho Ngài bước vô. Đó không phải là điều xa xôi gì cả, nhưng đó là điều ở ngay trong cuộc sống thường nhật mà chúng ta cần phải đặt mình dưới những lề luật của Ngài để cuộc sống của chúng ta được hiểu rõ hơn về con người của chúng ta và tại sao chúng ta sống và chết. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta đón nhận những cơ hội để cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa một cách sâu xa hơn qua gia đình, cộng đoàn, và thế giới. Qua cuộc sống thường ngày, chúng ta đón nhận những cơ hội để hiểu biết nhau hơn và yêu mến nhau hơn trong Chúa Giêsu Kitô.

“Ai từ bỏ mạng sống mình thì sẽ cứu được nó.” Chúa Giêsu không nói điều này với chúng ta vào Chúa Nhật tuần tới, hoặc là thứ Sáu, thứ Bảy tháng tới, nhưng chính là hôm nay. Chúng ta hãy từ bỏ mạng sống mình trong sự phục vụ yêu thương, và chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra con người thật sự của mình. Chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra chúng ta là ai và tại sao chúng ta là chúng ta. Chỉ có thế, chúng ta mới nhận ra được ý nghĩa và lý do tại sao chúng ta hiện hữu.

Nếu các bạn muốn đàn lên một khúc nhạc tuyệt vời trong cuộc sống mình, các bạn hãy đổi từ cung “Ý tôi” sang cung “Ý Chúa.”

 

36. Biết Đức Kitô

Anh chị em thân mến.

Đọc các sách Tin Mừng, nhiều lần ta thấy được điều này là sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ thì thường khi Chúa cấm không cho người ta nói về phép lạ mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Vì sao thế? Có phải Chúa sợ người ta sẽ ùn ùn kéo đến xin Chúa làm phép lạ? Có phải Chúa sợ người ta tin vào Chúa hay còn một điều gì khác mà Chúa cần phải từ từ tỏ lộ? Các bài đọc Chúa nhật hôm nay ta sẽ thấy được đâu là sứ mạng của Đấng Cứu Thế mà Chúa Giêsu đang đảm nhận, một Đấng Cứu Thế thể hiện tình yêu của Thiên Chúa qua con đường tự hạ, con đường thương khó không như Vì Cứu Thế theo suy nghĩ của bao người Do Thái.

Bài Tin mừng theo thánh Luca (Lc 9, 18- 24) được Giáo hội cho chúng ta đọc hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem người ta nhận Ngài là ai cũng như Ngài muốn các môn đệ nhận Ngài là ai sau khi đã có một thời gian dài cùng các môn đệ bôn ba đi rao giảng. Dân chúng thì mỗi người mỗi khác, có người cho rằng Ngài là ngôn sứ Elia, có người cho rằng Ngài là Giêrêmia hay một ngôn sứ nào đó. Tuy nhiên Chúa Giêsu muốn các môn đệ nói lên ý kiến của mình xem họ nhận Ngài là ai? Phêrô trả lời thay cho toàn thể môn đệ “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đến đây, thánh Luca ghi rất rõ là “nhưng Chúa Giêsu nghiêm giọng truyền cho các ông không được nói điều ấy với ai và Ngài tiên báo Ngài sẽ bị loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Phải chăng Chúa Giêsu cấm các môn đệ nói ra điều đó vì Ngài không phải là Đấng Kitô. Tại sao được các môn đệ nhìn nhận đúng với thực tế như vậy mà Chúa Giêsu lại cấm. Muốn hiểu điều này ta hãy giở lại bài đọc một sách tiên tri Dacaria, tiên tri Dacaria tiên báo Vị Cứu Thế được Thiên Chúa ban cho nhân loại là Vị Cứu Thế bị giết chết, bị đâm thâu. Như thế Chúa Giêsu không muốn cho các môn đệ loan báo sứ mạng của Ngài là vì quan niệm của dân chúng khi đó chưa thể đón nhận được Đấng Cứu Thế chịu đau khổ. Ngay cả Phêrô còn không chịu nổi đã cản lối Thầy khi Chúa Giêsu loan báo Một Đấng Cứu Thế chịu đau khổ. Theo người Do Thái Đấng Cứu Thế phải là một Đấng giải phóng, một đấng uy hùng mạnh mẽ đứng lên tập họp dân chúng đánh trả quân Rôma đang đô hộ đất nước họ và cũng sẽ là đấng thôn tính muôn dân tộc trên trái đất. Trong bài Tin mừng hôm nay ta thấy rõ sau khi không muốn cho các môn đệ nói về Đấng Mêsia thì ngay lúc ấy Chúa Giêsu tiên báo cuộc thương khó. Đấng Cứu Thế thật là Đấng Cứu Thế giải phóng con người khỏi tội lỗi, khỏi sự chết giải phóng con người khỏi những gì còn lớn lao hơn nhiều so với tư tưởng của người Do Thái có được.

Mỗi người chúng ta hôm nay, chúng ta nhận được ơn cứu độ nơi Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Chúng ta tin chắc rằng Ngài là Đấng Cứu Thế của chúng ta, Ngài đã mở đường để chúng ta theo Ngài mà chiến thắng. Con đường Ngài đi là con đường hy sinh tự hạ. Để theo được Ngài hãy nghe lời Ngài mời gọi “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Nghe lời Thầy Chí Thánh mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy thực hiện việc bỏ mình. Bỏ mình là một việc thật là khó đối với hay tự cao tự đại như chúng ta, bỏ mình đòi hỏi phải quên bản thân mình, không còn coi mình là trung tâm, là nhất nữa. Thay vào đó là cố gắng thực hiện ý Chúa trong đời sống của mình. Vác thập giá mình, bỏ mình thôi thì chưa đủ nhưng còn phải thực hiện ý Chúa là vác thập giá mình, là đón nhận những khó khăn khốn khó của bản thân mình. Đón nhận tất cả với một lòng tin tưởng sâu xa. Chúa có cách của Chúa để dẫn đưa con cái Chúa theo Chúa. Hãy phó thác cho Chúa cho dù trong cuộc đời chúng ta có những lúc như mờ tối, như vắng bóng Thiên Chúa. Hãy tin rằng Chúa luôn luôn bên ta, nâng đỡ ta mọi nơi mọi lúc.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng hơn về Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Độ của chúng ta. Ngài không phải là một Thiên Chúa vô cảm, xa vời nhưng là Thiên Chúa gần gũi, yêu thương đã gánh vác những đau khổ của chúng ta, đã chia sẻ những nỗi đau khổ mà con người phải gánh chịu vì nguyên tội, Ngài đem tất cả đóng vào Thập giá để từ đây những ai muốn theo Ngài cũng phải biết qua con đường Thập giá thì cũng sẽ được chiến thắng như Ngài.

 

37. Câu hỏi hơn hai ngàn năm

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua miền đất dân ngoại, đến địa hạt thành Cêsarê Philiphê, một thành phố được quận vương Philiphê chỉnh trang để tôn vinh Hoàng đế Cêsarê.

Trên chóp đỉnh của một khối đá đứng sừng sững, một ngôi đền nguy nga bằng cẩm thạch trắng thờ Hoàng Đế La Mã được coi là một kỳ công trong vùng.Một số nhà chú giải cho rằng, cảnh tượng vĩ đại đó đã gợi ý khi Chúa tuyên bố Giáo hội của Ngài sẽ được xây trên nền tảng Phêrô vững chắc như một bàn thạch. Tuy nhiên, ý tưởng ấy đã có từ khi Chúa quyết định đổi tên Simon thành Kêpha hay Phêrô, nghĩa là Đá trong cuộc gặp gỡ đầu tiên (Ga 1,42).

Theo thói quen trước khi quyết định những điều quan trọng, Chúa Giêsu vừa đến nơi liền đi vào một chỗ thanh vắng, một mình cầu nguyện với Chúa Cha. Các Tông đồ chờ Thầy ở ngoại ô thị trấn. Họ nghiệm rằng, mỗi khi Thầy xa họ và trở về là có diễn tiến mới.Thầy trò lại đi về phía những làng nhỏ. Dọc đường Ngài hỏi các ông: Người ta nói Thầy là ai? Các ông đáp lại: có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả. Một số nói là Êlia, một số khác cho là một trong các tiên tri thời xưa như Giêrêmia. Nhưng Chúa nhấn mạnh: Còn các con, các con nói Thầy là ai? Phêrô lên tiếng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Bài Tin Mừng cho thấy, có ba mức độ nhận biết về Chúa Giêsu.

Dân chúng nhận thấy Chúa Giêsu là một tiên tri như Gioan Tẩy Giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri là sứ giả của Thiên Chúa nên thường có quyền làm được vài phép lạ như chữa bệnh, cứu đói… Dân chúng đến với tiên tri chủ yếu để xin ơn này ơn khác. Họ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Ngài để xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại. Họ đến với Chúa Giêsu vì lợi ích, để cầu lợi cầu phúc. Cho nên họ không thể nhận ra Ngài là Đấng Kitô.

Các môn đệ nhận biết về Chúa Giêsu. Khi Chúa hỏi: “Các con bảo Thầy là ai? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18; Is 11. 61,1-2; 1V 19,16). Chúa Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.

Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Ngài siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất, Ngài là Đấng Thánh của Israel và nước Ngài tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11; 12).

Theo truyền thống tiền nhân, các môn đệ cũng quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế. Vì vậy, khi thấy Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin cho hai con trai: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Ngài ra và can ngăn Ngài đừng dại dột thế. Chúa Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 22-23).

Mức độ thứ ba chính là cao điểm của toàn thể Kinh Thánh và mầu nhiệm cứu độ nơi Thập Giá và Phục Sinh. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Đó là sứ mệnh chính yếu của Đức Kitô: tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-18; 15, 13).Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.

Suy niệm trang Tin Mừng này, Thánh Gioan Kim Khẩu viết: khi Chúa hỏi về dư luận quần chúng, mọi Tông đồ đều trả lời. Khi Chúa hỏi cảm nghĩ của các ông, Phêrô một mình lên tiếng trước các bạn. Không phải do xác thịt nhưng nhờ Chúa Cha mạc khải nên Phêrô nhận biết Thầy Giêsu là Đức Kitô ở tầm mức cao nhất. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người” có một Giêsu “Thiên Chúa ”. Phêrô nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của Chúa Giêsu có một thần tình cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Vì thế, Phêrô được Chúa khen tặng và tín nhiệm trao quyền tối thượng: “Phêrô, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Ba hình ảnh cụ thể mô tả quyền tối thượng của Phêrô trong Giáo Hội. Đó là, Phêrô được trao chìa khóa Nước Trời, Phêrô được quyền tháo gỡ, cầm buộc và cửa địa ngục sẽ không thắng được.

Tuyên tín Chúa Giêsu là ai tức là xác định đường mình đi. Phêrô đã tuyên tín trên đường hành trình với Chúa. “Các con nói Thầy là ai? ” Chúa không hỏi các môn đệ câu ấy trong lúc nghĩ ngơi mà lúc đi đường. Những ngày ở Giêrusalem, ở Galilê, ở Nazareth, người ta nói về Đức Giêsu, người ta xem Ngài làm phép lạ, họ gọi Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, là một tiên tri nào đó. Không ai biết Ngài là Đức Kitô. Để biết Ngài, phải sống và hành trình với Ngài và cùng đi với Ngài trên mọi nẻo lối trần thế.

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Phêrô đã khám phá ra thần tính trong nhân tính của Chúa Giêsu. Phaolô trên đường Đamat, bị té ngựa do ánh sáng từ trời, đã hốt hoảng kêu lên: “Ngài là ai? ” và có lời đáp bất ngờ: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5), Phaolô khám phá ra nhân tính trong thần tính của Đấng đã gọi ngài.

Chúa Giêsu là tâm điểm đức tin của chúng ta, bởi lẽ “dưới bầu trời này, không có Danh nào khác”, ngoài Danh Giêsu “được ban cho loài người để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12). Nếu ai đó hỏi rằng điều gì làm nên một Kitô hữu, thì câu trả lời là: đó là người tin rằng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Niềm tin đó là đá nền, trên đó Hội Thánh được xây dựng (GLCG số 424). Tin vào Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Yêu mến Ngài như chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa (Đnl 6,4-5). Điều độc đáo và đặc biệt của niềm tin Kitô giáo là tin rằng Đức Giêsu, một con người được sinh ra dưới thời hoàng đế Cêsarê Augustô và chết trên thập giá dưới thời hoàng đế Tibêriô, người ấy chính là Thiên Chúa, là Con hằng hữu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đó là mầu nhiệm khôn dò của đức tin Kitô giáo “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,11).

Chỉ trong ánh sáng này chúng ta mới hiểu được tại sao tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là bước theo Ngài, và bước theo Chúa là đòi hỏi quan trọng hơn mọi cam kết khác trong đời. Làm sao một con người thuần túy mà có thể nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37)? Đòi hỏi ấy chỉ có thể đến từ Đấng là chính Thiên Chúa. Làm sao một con người mà có thể nói: “Tất cả những ai nhìn nhận Thầy trước mặt người đời thì Con Người cũng sẽ nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)? Điều đó lại chẳng có nghĩa rằng ơn cứu độ vĩnh cửu tùy thuộc vào thái độ của người ta đối với Chúa Giêsu sao?

Nếu chỉ nơi Chúa Giêsu mới có ơn cứu độ, nếu chỉ có Ngài mới là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” thì liệu có ai có thể được cứu độ mà không cần đến Chúa Giêsu? Nếu như thế, biết bao người chưa hề nghe đến Danh Chúa Giêsu, không có cơ hội để nhận biết và yêu mến Ngài thì sao ( GLCG số 846-847)? Chính Chúa Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này: đến giờ phán xét, Con Người sẽ tỏ cho thấy tất cả những hành động yêu thương chân chính dành cho tha nhân “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm…”, tất cả những hành động yêu thương ấy đều là cho chính Chúa: “Điều gì các ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, là làm cho chính Ta” (Mt 25; GLCG số 1038).

Sau lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã được biến đổi và trở nên khác với Simon ngày trước. Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Cả hai ngài đã trở nên cột trụ xây dựng Hội Thánh và cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi, đó là đức tin của Hội Thánh và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.

“Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), bất cứ ai được tình yêu này chiếm hữu, bất cứ ai kinh nghiệm về sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và quyền năng phục sinh của Ngài, thì người ấy sẽ cảm thấy nỗi ước mong loan báo về Ngài, rao giảng Tin Mừng của Ngài, và dẫn mọi người đến niềm tin vào Chúa Giêsu (GLCG số 429).

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi ấy, Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng, bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng.

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi đã hơn hai ngàn năm cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay. Trả lời là sống niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô. Ngài là Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính yêu thao thức tìm kiếm gặp gỡ gắn bó. Ngài ở trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, Thánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Ngài hiện diện nơi anh chị chung quanh để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên đới trách nhiệm. Ngài hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.

Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô, yêu mến Ngài, bước theo Ngài. Và hơn nữa, “Anh em không còn là nô lệ nhưng là con” (Gal 4,7). Nhờ Chúa Giêsu, với Ngài và trong Ngài, chúng ta trở nên những “con cái của Thiên Chúa” (1Cor 6,18).

 

38. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang

PHÊRÔ TUYÊN TÍN, ĐỨC GIÊSU LOAN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN THỨ NHẤT

1) Phêrô tuyên tín

Khi Đức Giêsu hỏi các Tông đồ: “Người ta bảo Thầy là ai?”, Ngài hỏi không vì lợi ích của riêng Ngài, mà vì lợi ích của họ, bởi Ngài biết chắc Ngài là ai. Còn họ và đám đông vẫn hàm hồ. Với đám đông, Ngài là Gioan Tẩy Giả, Êlia, hay một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Các Tông đồ khá hơn. Phêrô đại diện anh em thưa: “Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”.

Kitô là gì? Theo nguyên tự, Kitô hay Messia là Đấng được xức dầu, để lo việc của Thiên Chúa. Trong dân Chúa chỉ có hoàng đế, tư tế và ngôn sứ được xức dầu, để có ơn Chúa phục vụ dân. Nhưng dần dần, với truyền thống của các ngôn sứ, danh từ Đức Kitô, “Đấng được xức dầu” được dành để ám chỉ Đấng Thiên Sai cứu thế, sẽ đến khi thời gian đã sung mãn. Vậy, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, Phêrô nói lên niềm tin Ngài là Đấng Thiên sai Cứu thế.

Trong đoạn văn tương tự của Matthêu, Đức Giêsu đã khen Phêrô là người có phúc, vì không phải xác thịt đã nói cho ông biết được như vậy, nhưng chính là Cha trên trời đã soi sáng dạy dỗ ông. Trong Tin mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu không khen, cũng không trực tiếp chấp nhận lời Phêrô tuyên xưng. Bởi lời tuyên xưng đó chỉ đúng về ngôn từ nhưng sai về nội dung. Thật vậy, cho dù có cả một hệ thống tiên tri báo trước về cuộc khổ nạn của Đấng Thiên sai Cứu thế, Isaia đã dành cả chương 53 để nói về Đấng Thiên Sai là người Tôi trung của Đức Giavê chịu đau khổ, Tiên tri Dacaria trong bài đọc I hôm nay loan báo một Đấng Cứu Thế bị đâm thâu (Dcr 12,10-11). Thế nhưng, người Dothái cũng như các Tông đồ không hề để ý, họ chỉ nghĩ đến Đấng Cứu Thế anh hùng, như vị hoàng tử với những chiến công hiển hách.

2) Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất.

Hugues Cousin nhắc lại: “Một văn bản Pharisêu được soạn thảo hai mươi bốn năm về trước (Thánh vịnh Vua Salômon 17) miêu tả Đấng Messia xua đuổi người di cư và ngoại kiều ra khỏi Đất thánh, để thanh tẩy mọi ô uế, và Người cai trị mọi dân nước trên hoàn cầu bắt đầu từ Giêsusalem”. Vì thế, chẳng lạ gì khi thấy các Tông đồ tranh cãi nhau ai là người lớn nhất và Giacôbê, Gioan xin được ngồi bên tả, bên hữu Thầy, khi Thầy hiển trị trong nước của Thầy. Đức Giêsu không muốn môn đệ cứ hàm hồ hiểu lầm mãi, Người muốn họ hiểu đúng nội dung ngôn từ Messia, Ngài sẽ thực hiện, cho dù khi cho biết điều đó sẽ là cớ vấp phạm cho họ. Ngài vẫn nói: “Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ, bị các đầu mục và hàng tư tế phế thải, bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Đối với các Tông đồ, lời loan báo này như một gáo nước lạnh giội vào người các ông. Ở đây Luca bỏ qua, nhưng hai thánh sử Mátthêu và Maccô ghi nhận: Phêrô đã can gián Đức Giêsu, kéo Người riêng ra một chỗ và nói với Ngài: “Xin Thiên Chúa đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”, và bị Đức Giêsu quở mắng là Satan. Có lẽ Luca bỏ qua vì hai lý do: Trước hết, sau khi cám dỗ Đức Giêsu ở hoang địa, Satan đã rút lui chờ đến cuộc thương khó mới xuất hiện ở vườn Giệtsimani. Tiếp đến, trong sách công vụ sứ đồ chương 1 đến 15, Luca đã giới thiệu Phêrô là bậc vị vọng nhất trong các Tông Đồ, không lẽ nào Phêrô là Satan, Luca thấy không thích hợp nên đã bỏ qua.

Tuy nhiên, cũng như Mátthêu và Maccô, sau khi Phêrô tuyên tín, Luca cho thấy: “Đức Giêsu đã nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Maccô gọi đó là “bí mật của Đấng Messia”. Quả thật, nếu tỏ cho dân chúng biết sớm, e rằng chương trình của Thiên Chúa về sự đau khổ của Đấng Messia sẽ không thực hiện được, bởi khi nhân năm cái bánh và hai con cá lên nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người lên làm vua. Giờ đây, biết Người là Đấng Messia, họ sao có thể đóng đinh Người?

Thế nhưng, có một điều Đức Giêsu tỏ cho họ biết ngay, đó là: “Ai muốn theo Tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo”. Vác thập giá mình là công việc hàng ngày, người tín hữu phải làm để đi theo Đức Kitô. Người môn đệ muốn nên giống Ngài, muốn hiệp nhất với Ngài, phải từ bỏ chính mình, nếu cần phải sẵn sàng chết trên thập giá như Ngài. Người ta chỉ có thể theo Đức Kitô và xứng đáng là tín hữu của Ngài, khi biết đón nhận sự đau khổ và bách hại vì đạo. Nói cách khác, chính trong mức độ biết liều mạng sống, để tuyên xưng Đức Giêsu Kitô trước mặt quân thù, mọi người Kitô hữu sẽ cứu mạng sống mình trong ngày Con Người đến phán xét.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng Mesia chịu nhiều đau khổ, xin cho chúng con vác thập giá mình hàng ngày, để sau này được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời chúng con cầu xin.

 

39. Cần một niềm xác tín – Lm. Vũ Xuân Hạnh

Khởi đi từ ý thức của thánh Phêrô, cũng là đại diện cho tông đồ đoàn: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” dành cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con bảo Thầy là ai?”, Chúa Giêsu dẫn dắt các ông đến một mạc khải hay cũng là một thử thách quan trọng, đòi các ông phải dấn thân nhiều hơn cho đức tin. Vì “Đấng Kitô của Thiên Chúa” ấy, không phải là Đấng “ăn trên, ngồi trước”, nhưng sẽ là Đấng hạ mình chết cho anh em, vì anh em. Đấng “phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Nhưng Chúa không dừng lại ở mạc khải về mình mà thôi. Người càng đẩy xa hơn, tới mút cùng của mạc khải: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. “Hãy theo Ta”; “Hãy bỏ mình”; “hãy vác thập giá” là gì, nếu không là mời gọi ta hãy tháp nhập thập giá đời ta vào Thánh Giá của Người, để thập giá đời ta cũng sẽ trở thành thánh giá cứu chuộc chính mình. Vì khi tháp nhập vào thập giá của Chúa Kitô, thập giá của Người sẽ là Thánh Giá thánh hóa chúng ta. Tháp nhập như thế chính là chấp nhận thập giá như Chúa Kitô đã chấp nhận. Tháp nhập như thế, không là một dấn thân cho đức tin mà Chúa đòi các môn đệ phải sống hay sao! Và đó cũng chính là thử thách mà các môn đệ của Chúa Kitô, một khi chấp nhận theo Thầy, phải vượt qua!

Với xác tín của thánh Phêrô, sau đó là lời mạc khải về thập giá của Chúa và bổn phận vác thập giá đời mình theo Người, bạn hãy cùng tôi, ít là một lần, ý thức hơn một nền tảng: Trọn một niềm xác tín nơi Chúa Kitô.

Tôi còn nhớ một câu chuyện vui, ai đó kể rằng: Có một ông vua luôn luôn gặp phải những điều phiền muộn. Nghe biết có một anh hề ngây ngô, nhưng do sự ngây ngô ấy, anh ta có thể gây cười cho nhều người. Một ngày nọ, nhà vua gọi anh hề vào cung và ban cho anh phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để anh có thể tự do ra vào cung, làm trò giúp nhà vua giải khuây. Nhà vua nói:

– Ngươi hãy giữ lấy phủ việt này cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi, thì trao lại cho họ.

Từ đó, mỗi khi có những buổi đại triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu kỳ hoặc, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua.

Một thời gian, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại, buồn bã nói:

– Ta sắp đi du lịch xa lắm.

– Hoàng thượng đi tận đâu ạ? Anh hề hỏi.

– Ta chẳng biết nữa.

– Nhà vua dã chuẩn bị hành trang chưa?

– Vẫn chưa.

Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:

– Vậy xin hoàng thượng cầm lấy phủ việt này. Thần xin trao lại cho hoàng thượng, vì nay thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn thần rồi.

Và hôm nay, khi chuẩn bị bài suy niệm này, tôi lại nhận được một thiệp báo tin ngày khấn trọn đời của một nữ tu. Dĩ nhiên, đây không phải là lần đầu tiên tôi nhận thiệp báo tin vui mừng như thế này. Nhưng khác với bao nhiêu lần, bỗng dưng có một cái gì đó khiến tôi miên mang suy nghĩ và cảm nhận một cách lớn lao lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy bỏ mình mà theo Ta”. Bước vào đời tu, chắc chắn người nữ tu ấy đã xác tín niềm tin của mình nơi Chúa Kitô. Rồi mai đây chị tuyên khấn trọn đời, tiến lên một nấc thang cao hơn, một lần nữa niềm xác tín ấy sẽ được chị quyết sống cho cả đời tu của mình.

Tôi ngỡ ngàng khi nhận ra con người ta có chung nhiều lắm: cả vũ trụ này, cả một bầu khí quyển… Ngay cả chung nhau trong một mái gia đình, cùng do một người cha, người mẹ sinh ra đi nữa, thì mỗi cuộc đời của mỗi người vẫn vô cùng khác nhau. Chọn lựa cách sống và lẽ sống càng khó giống nhau.

Vì giữa một xã hội, người người lấn nhau để sống, tranh giành nhau từng miếng cơm, gian lận nhau từng gram rau quả…, thì lại cũng có biết bao nhiêu anh chị em cả một đời dám dấn thân cho ơn gọi tu trì, không màng vinh hoa, có khi còn từ bỏ cả lối sống tiện nghi của gia đình để bước vào đời tu. Đi theo Chúa Kitô, những anh chị em ấy họa lại khuôn mặt tình yêu của Người dâng tặng cho đời. Bởi vậy, với tôi, một khi nhận được thiệp báo tin chịu chức hay khấn dòng, tôi lại không coi đó là niềm vui dành cho chính đương sự hay của hội dòng, của giáo phận mà thôi. Nhưng đó là niềm vui lớn, niềm vui ơn Trời tặng ban cho người trần những món quà sống động là chính anh chị em sống đời tu.

Còn nữa, bao nhiêu anh chị em đêm ngày dấn thân để phục vụ người câm điếc, trẻ bất hạnh, người mắc phong cùi… một cách vô vị lợi, không mảy may nghĩ đến quyền lợi của bản thân…

Nhưng mặt khác, cùng là người lại có những con người, dẫu lắm quyền cao, chức trọng, và giàu sang, đến lúc sắp lìa đời lại trở nên nghèo xơ xác, nghèo đến nỗi chẳng biết mình có cái gì để mang theo về bên kia thế giới. Còn một kẻ nghèo tận cùng, nghèo đến nỗi chỉ có tiếng cười làm vui cho mọi người, thế mà khi đối diện với cái chết của đồng loại, lại vẫn nắm trong tay cái phủ việt, nắm trong tay cả một vương quyền, để trở nên giàu có, có thể cho một kẻ đã từng giàu có hơn mình. Câu chuyện anh hề và nhà vua bên trên là một ví dụ.

Bởi thế, đối diện với cái chết, chưa biết ai khôn ngoan, ai ngu đần. Một người suốt đời chỉ sở hữu cái ngu đần. Còn người kia đã từng là kẻ hưởng thụ trên sự ngu đần của người khác, lại thiếu khôn ngoan. Hóa ra, đứng trước lương tâm con người, đứng trước giờ chết, và hơn thế, đối diện với đức tin, mọi trật tự sẽ bị đảo lộn: Cái tầm thường, đáng khinh dể trước mặt nguời đời, lại trở thành cái có giá trị ngàn đời. Còn những gì con người ưa chuộng, tìm kiếm, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn là sở hữu…, lại chỉ là một con số không to lớn!

Cuộc sống xung quanh bạn và tôi, ngay cả chính chúng ta, hoặc có nhiều anh chị em vẫn bị cho là thiếu khôn ngoan. Vì những anh chị em ấy quá thật thà, quá hiền lành, nghe theo lời dạy của Chúa Giêsu mà tha thứ quá dễ dàng… Hoặc họ dám lội ngược dòng, khi biết từ chối một lối sống buông thả giữa bao nhiêu cám dỗ, từ chối mối lợi nào đó mà bên trong nó chứa đựng không biết bao nhiêu gian dối… Nhưng chính trong niềm xác tín nơi Chúa Kitô và bước theo Người, họ vẫn bình an, vì đó là chọn lựa mà họ đã dấn thân để làm lẽ sống cho mình.

Dù đã xác quyết “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, thánh Phêrô vẫn có những va vấp trong cuộc đời theo Chúa của mình. Tuy nhiên, sau khi biết mình yếu đuối, thánh nhân đã vùng đứng lên và đứng trên những va vấp ấy. Từ đó thánh Phêrô không chỉ xác quyết bằng lời, mà còn xác quyết bằng cả một đời còn lại của mình một cách kiên trung, sống chết cho một niềm tin lớn lao về “Đấng Kitô của Thiên Chúa” ấy. Nếu Thầy đã từng chấp nhận thập giá, thánh nhân cũng đã nghe theo lời mời gọi của Thầy, trung thành vác thập giá đời mình. Vì thế, Thánh nhân trở thành chứng nhân xuất sắc, một chứng nhân tuyệt vời của Chúa Kitô.

Bước theo Chúa Kitô, Người cũng lặp lại chính lời mà Người đã hỏi các tông đồ ngày xưa: “Các con bảo Thầy là ai?”. Dù không tuyên bố thành lời, bạn và tôi chắc đã từng xác quyết như thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, để với một niềm xác tín ấy, chúng ta chấp nhận thập giá trong cuộc đời và bước theo Người.

Mang phận người hèn yếu, chắc chắn những người bước theo Chúa Kitô vẫn có những lần vấp ngã. Nhưng chúng ta hãy học nơi tấm gương của thánh Phêrô, nơi tấm gương của biết bao nhiêu vị thánh trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là những tấm gương sáng chói của rất nhiều anh chị em quanh mình, nhờ đó ta vững vàng hơn trong chọn lựa theo Chúa của mình.

Hãy nhớ một điều quan trọng: Khi đối diện với thử thách, chúng ta đừng quên xác tín vào Chúa Kitô. Nhờ xác tín từng giây phút trong đời mình, ta bắt gặp nơi khuôn mặt “Đấng Kitô của Thiên Chúa” không phải là khuôn mặt của một người vô cảm, chỉ biết sử dụng quyền hành, nhưng là khuôn mặt của một Thiên Chúa hóa thân làm người, luôn luôn yêu thương, thông cảm, tha thứ và chấp nhận thập giá vì ta. Nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô như thế, ta sẽ mạnh mẽ, kiên trung và bình an mà chấp nhận thập giá đời mình, bước theo Người.

 

40. Đức Kitô – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyện cũ: Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không kham chịu, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó, muốn chọn cây nào tùy thích. Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: Có cây thì qúa dài, cây thì qúa ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù xì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng qúa… Và rồi đêm nào cũng thế, cho đến một lần kia, anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái, anh vác thập giá đó về nhà. Nhưng hỡi ôi, khi nhìn kỹ lại, thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào!

Tiên tri Zacharia thi hành sứ vụ tại Giêrsalem vào khoảng năm 520-518 trước Công Nguyên. Sau cuộc lưu đầy ở Babylon, tiên tri đã trở về Giêrusalem cùng thời với Zerubbabel. Quan niệm thần học của Zacharia chú ý đến chức vụ tư tế và xây dựng lại đền thờ. Khai mạc một thời kỳ mới trong sự thịnh vương và vinh quang cho Giêrusalem. Tiên tri đã tiên báo về thánh thánh và về Đấng sẽ cứu chuộc Dân Người: Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta thương tiếc đứa con đầu lòng (Zach 12, 10). Zachariah đã hình dung thấy sự đau khổ và sự chết của Đấng Cứu Thế.

Chúa Kitô xuất hiện trong lịch sử nhân loại một cách rất âm thầm. Ngài nhập thể và nhập thế để trở nên giống như mọi người. Chúa ra rao giảng và kết thân với những người đơn sơ thanh bần. Một cách khiêm hạ hòa trộn chung sống với những người chài lưới, thất học. Tuy nhiên qua cung cách giảng dạy đầy uy quyền của Chúa, nhiều người đã tin theo. Họ đi theo Chúa. Họ tin vào Chúa nhưng chưa nhận biết rõ Chúa là Đấng nào. Hình dáng bề ngoài giống như một tiên tri, một thầy dạy và một sứ giả tin mừng. Chúa đã dạm hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”(Lc 9, 20). Đấng Kitô bao hàm một ý nghĩa sâu thẳm. Chính Phêrô cũng không hiểu rõ. Đấng Kitô là Đấng được Xức Dầu loan báo Năm Hồng Ân. Ngài là Con Thiên Chúa giáng trần. Ngài là Đấng trung gian giữa trời và đất. Ngài là Đấng cứu độ trần gian.

Đấng Kitô hiện hữu từ đời đời. Đã hạ thân làm người trong thời gian và không gian. Ngài đã đồng hành với con người thời đại một cách rất kiên nhẫn. Đấng Kitô là Ngôi Lời và là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan thông suốt đã đối diện với sự nông cạn, hẹp hòi và ích kỷ của con người. Ngôn ngữ loài người rất giới hạn để Ngài mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Chúa đã thực hiện những phép lạ để nói lên quyền năng vô hạn của Ngài. Uy quyền đó có thể thay đổi mọi sự theo ý muốn của Ngài. Trong khi trí khôn hiểu biết của con người phàm trần còn u mê và giới hạn. Một biển cả mênh mông làm sao có thể chứa trong một lỗ còng cỏn con. Mầu nhiệm Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài vượt trên tất cả sự suy tưởng của con người, làm sao hiểu thấu. Kiêu căng không chấp nhận sự cao siêu, nên nhiều người tìm cách chối từ. Có nhiều người đã từ chối chính Đấng đã dựng nên mình.

Chỉ cần một phép lạ thay đổi bản thể sự vật đáng làm cho chúng ta suy nghĩ và chìm đắm trong ân sủng của Thiên Chúa. Có nhiều người tìm cách chế diễu và nhạo cười những người tin vào quyền năng Thiên Chúa. Truyện kể: Trong một cuộc họp, một giáo sư vô thần chứng minh Chúa Kitô chỉ là một anh phù thủy. Khi đó, ông có một ly nước trước mặt. Ông bỏ vào một thứ bột và nước liền hóa ra mầu đỏ. Ông nói: Đó là một phép lạ. Đức Kitô đã giấu trong tay áo một thứ bột giống như bột này. Ông nói tiếp: Ngài đã làm phép lạ khi biến nước thành rượu theo cách này. Hãy xem đây, tôi còn làm những chuyện lạ hơn Đức Kitô nữa: Tôi biến rượu thành nước lã. Rồi ông đổ một thứ bột khác vào nước, nước đổi ra mầu trắng, rồi lại đỏ như trước với thứ bột khác. Một Kitô hữu đứng dậy nói: Thưa ông, ông thật giỏi. Nhưng tôi xin ông hãy uống thứ rượu đó, thứ rượu ông vừa làm phép lạ xem sao? Ông ta không dám uống vì đó là chất hóa học độc hại. Người Kitô hữu nói tiếp: Thưa quí vị, đó là sự khác biệt giữa Chúa Kitô và ông giáo sư này. Với rượu nho của Ngài. Ngài đã rót cho chúng ta 2000 năm hoan lạc rồi.

Qua nhiều thời đại, con người vẫn luôn tìm cách loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Họ muốn hoàn toàn làm chủ đời mình nhưng họ đã hoàn toàn bất lực và bó tay với sức tàn của hơi thở sự sống. Chúa cất hơi thở là họ sẽ trở về hư không. Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu từ đời này sang đời khác. Vũ trụ và muôn loài cũng hiện hữu trong sự xoay vần và thay đổi luôn. Sự có mặt của mỗi người ở trần gian chỉ trong khoảnh khắc của thời gian và không gian. Sự hiện hữu của con người ví như một hạt bụi hay một giọt nước trong đại dương nay còn mai biến mất. Sự có mặt của con người cũng chẳng làm thay đổi được sự hiện hữu của vũ trụ vạn vật. Đời sống con người như hoa sớm nở tối tàn thôi. Từ hư không, Thiên Chúa ban cho sự sống hiện hữu làm con người và tới một ngày, thân xác lại trở về hư không.

Đấng Kitô đã đến để mang Tin Mừng cứu độ và mạc khải cho con người về lối bước của Chúa. Ngài chỉ dậy cho chúng ta con đường lên thiên đàng. Chính Ngài đã mở lối theo con đường hẹp: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cung kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”(Lc 9, 22). Đấng Kitô đã hạ thấp xuống cùng tận để nâng chúng ta lên làm con Chúa và cho chung hưởng hạnh phúc đời đời. Giống như chiếc máy bay phải hạ cánh đáp xuống đất để đón khách và từ đó mới bay lên không trung. Chúa Kitô chịu xả thân nhục nhã, chịu chết và sống lại để mang ơn cứu độ cho chúng ta.

Thánh Phaolô đã dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Kitô. Chúng ta được lãnh nhận Bí Tích thánh tẩy. Chúng ta thuộc về Chúa và mang danh Chúa Kitô: Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô (Gal 3,28). Tất cả những người tin Chúa đều được chia sẻ sự sống ân sủng do giá máu của Ngài. Trong Chúa Kitô: Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy Lạp, nô lện hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô (Gal 3, 28). Thật nhiệm mầu và cao quí thay! Càng suy gẫm, chúng ta càng cảm thấy tình yêu thương của Thiên Chúa bao la tuyệt vời. Không còn tình yêu nào cao quí hơn nữa. Chúa Kitô đã dùng mọi cách để mời gọi, hướng dẫn và trao ban ân sủng để giúp chúng ta đạt đến sự sống đời đời.

Phần chúng ta: Chúa Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9, 23). Muốn dõi theo đường đi lối bước của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài Thập Giá Đức Kitô. Chúng ta không vác thánh giá cuộc đời trong đơn côi nhưng cùng vác với Chúa. Chúa Giêsu khuyến khích: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường. tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Ta êm ái và gánh Ta nhẹ nhàng (Mt 11, 28-30).

 

41. Phút dừng chân khẳng định căn tính

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Tôi là ai? Một câu hỏi mà các triết gia xưa nay không ngừng tự vấn bản thân mình. Nhiều triết gia cổ đại như Socrates đã khẳng định rằng biết mình chính là một trong những cái biết làm nền tảng của mọi sự hiểu biết và của sự thành công và cả sự thành nhân. Lão Tử nói: “Biết người là khôn. Biết mình là sáng”. Khôn thì có thể dụng người, có thể lừa người, có thể thành đạt ở đời này trong lãnh vực kinh doanh, chính trị… Nhưng sáng thì có được nhận thức đúng đắn hơn về con người, về cuộc đời, về thế giới… Sáng thì giúp ta sống đúng phận người trong cõi nhân sinh, nói theo các hiền nhân thì cái sáng giúp ta sống đắc đạo dù nhiều khi có thể gặp vất vả hay lận đận trong cuộc đời này.

Nội dung bài Tin Mừng thánh Luca mà Giáo Hội cho trích đọc trong Chúa Nhật XII TN C cũng được Tin Mừng thánh Matthêu và Tin Mừng thánh Maccô tường thuật. Đây không chỉ là bằng cớ minh chứng tính lịch sử của sự kiện Chúa Giêsu tâm sự với các môn sinh mà còn có thể xem là một kỷ niệm khó quên đối với các ngài. Theo các chuyên gia nghiên cứu Tin Mừng, cách riêng các Tin Mừng Nhất Lãm thì cuộc đời hoạt động của Chúa Kitô có thể được phân thành ba giai đoạn chính như sau:

– Giai đoạn thứ nhất: Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, thi thố quyền năng và thu nạp môn đệ.

– Giai đoạn thứ hai: Chúa Giêsu huấn luyện các môn sinh.

– Giai đoạn thứ ba: Chúa Giêsu đi vào cuộc tử nạn và phục sinh.

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn bản lề, mang tính quyết định cho công cuộc cứu thế của Chúa Kitô. Thời gian Chúa Kitô dẫn môn sinh lánh xa quần chúng, tạm ngưng các hoạt động rao giảng, chữa lành bệnh tật… để hàn huyên tâm sự không chỉ là thời gian Người dành riêng để huấn luyện các tông đồ mà còn là thời gian đặc biệt để chính Người “biết mình” hơn. Khi đã nhận rõ và xác tín về căn tính của mình thì người ta sẽ thấy đúng con đường mình sẽ đi cũng như nhiệm vụ mình sẽ hoàn thành. Quả thật, nhiều khi chúng ta có thể bị những hoạt động tốt đẹp bên ngoài lôi cuốn đi lệch mục tiêu sứ mệnh của mình. Ngoài những giây phút hồi tâm từng ngày vốn là cần thiết để kiểm định việc đã làm và hoạch định việc sẽ làm, cũng rất cần những khoảng thời gian dừng chân nào đó tương đối dài giúp nhận thức đúng và xác định căn tính của mình để lại tiếp tục dấn thân thực thi sứ mệnh. Qua câu chuyện giữa Chúa Giêsu và các môn đệ cũng như qua các bài đọc của Chúa Nhật XII TN C, chúng ta có thể nhận ra một vài phương thế để “biết mình” như sau:

– “Dân chúng nói Thầy là ai?” (Lc 9,18). Để biết mình thì việc lắng nghe, tiếp thu nhận định của tha nhân là điều như không thể thiếu. Phận người chúng ta khó tránh khỏi sự chủ quan khi xét, nghĩ về mình. Cha ông chúng ta đã từng cảm nghiệm: “việc người thì sáng, việc mình thì quáng”.

– “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Lc 9,20). Trong các ý kiến, các nhận định của tha nhân, thì các nhận định, các ý kiến của người thân quen xem ra khá gần với sự thật hơn cả. Khi hướng dẫn các em thiếu niên, thanh niên tìm hiểu các mặt mạnh-yếu của chúng, tôi thường nhắc nhớ các em ưu tiên lưu ý đến những nhận xét của cha mẹ, của anh chị em ruột thịt, của các bạn bè thân thuộc. Có thể nói rằng các nhận xét của những người này rất đáng lưu tâm vì chính họ là những người gần gũi chúng ta hơn nên biết nhiều về chúng ta, và nhất là, vì là những người có lòng với chúng ta, nên lời của họ trung thực hơn.

Các ý kiến, những nhận định của tha nhân dù gần hay xa, dù thân hay sơ tuy cần thiết và có giá trị nào đó, nhưng chúng không thể thay thể nhận định của bản thân mình. Trong niềm tin Kitô giáo thì sự tự nhận định của chúng ta không dừng lại ở việc tự kiểm thảo, tự suy tư, phân giải về mình mà theo ngôn ngũ triết học là phản tỉnh, mà còn phải nhận biết mình theo cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi tâm can bí ẩn lòng người, Đấng cho chúng ta từ hư vô được hiện hữu trong dòng đòi này. Nói như thánh Âugustinô thì chính Thiên Chúa mới cho chúng ta biết cách chính xác mình là ai và qua đó biết sứ mạng của mình là gì. Một lời cầu nguyện của thánh giáo phụ xem ra khá phổ biến, đó là: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết con”.

Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách thế như qua kỳ công của Người là vũ trụ thiên nhiên, qua các biến cố lịch sử, qua tiếng lương tâm… nhưng trong các cách thế ấy thì có thể nói Thánh Kinh là cách thế Thiên Chúa tỏ bày chương trình và ý định của Người cách rõ nét hơn cả. Chúa Kitô khi vào đời trong thân phận phàm nhân, đã dùng phương thế này để nhận biết căn tính cũng như sứ mạng của Người.

“Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Đấng chúng đã đâm thâu… Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế” (Dcr 12,11;13,1). Khi khẳng khái tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”, chắc chắn Phêrô chưa hiểu đủ và hiểu đúng nội hàm về Đấng Kitô. Trong nhiều đoạn Thánh Kinh thì những lời của ngôn sứ Giacaria trên đây đã góp phần giúp Chúa Giêsu nhận rõ căn tính và sứ mạng Kitô của mình. Biết mình đến thế gian không phải để được người ta hầu hạ nhưng để hầu thiên hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người, vì thế “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” (Lc 9,22). Sau khi nhận rõ căn tính và sứ mạng của mình, thì Chúa Giêsu đã cương quyết lên Giêrusalem, nghĩa là Người biết Người sẽ làm những gì (x. Mt 20,17-19; Mc 10,32-34, Lc 18,31-34).

Tôi là ai? Bởi đâu tôi được sinh ra làm người và sống ở đời này để làm gì? Những câu hỏi trên đã làm nhiều học giả, nhiều nhà hiền triết thao thức và dường như không thể có câu trả lời thỏa đáng. Một sản phẩm không thể nào tự minh định đầy đủ về mình về lý do cũng như ý nghĩa sự hiện hữu của mình. Không một ai ngoài chính người làm ra sản phẩm ấy mới biết đích xác những điều ấy, nghĩa là sản phẩm ấy là gì, được làm ra như thế nào và để làm gì. Khi đã tin rằng chính Thiên Chúa dựng nên mọi sự và dựng nên chúng ta, thì chỉ có Người mới cho chúng ta biết cách chính xác chúng ta là ai, có mặt ở đời này để làm gì. Vì thế, những khoảnh khắc, những giai đoạn dừng chân để nhận thức căn tính cũng như sứ mạng của mình quả là điều không thể thiếu. Dừng chân để nghe tiếng Chúa qua nhận định của tha nhân, của người thân cận, qua dòng chảy của lịch sử tự nhiên và xã hội, qua lời Thánh Kinh mà đặc biệt là qua cuộc đời, việc làm, lời giảng dạy của Đấng chính là Ngôi Lời nhập thể. Biết mình là cái biết nền tảng để thành nhân và thành người con cái Chúa.

 

42. Tuyên xưng Đức Giêsu thế nào cho phải?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

 Tôi gợi nhớ trong cuộc trao đổi kinh nghiệm mục vụ giữa các linh mục thuộc năm giáo phận miền tây trong cuộc hội ngộ tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Tp. HCM mấy năm trước, một linh mục lớn tuổi đã chia sẻ: trong giờ giáo lý khi ngài ra câu hỏi: ‘có mấy mầu nhiệm chính trong đạo, ba hay là hai?’ Một giáo dân đã trả lời: ‘Hai cũng được mà ba cũng thế thôi!’ Nghe Phêrô tuyên xưng: “Thầy là đấng Kitô của Thiên Chúa” (về nội dung rất khác với câu trong Mt 16:16 “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”), tôi cũng thấy có điều gì bàng bạc như thế; Phêrô thực tế đã thốt lên một công thức thật trịnh trọng, một tuyên xưng rất phổ biến trong suy nghĩ của nhiều người Do Thái thời bấy giờ. Thời đó hầu như mọi người Do Thái đều quan niệm rằng: đấng Ki-tô là vị thiên sai được phái tới để giải phóng dân, Ngài đầy vinh quang và uy quyền. Toàn thể các môn đệ, trong đó có cả Phêrô, đều có cùng một quan niệm đó! Do đó câu tuyên xưng này, đối với Đức Giê-su, chẳng có ý nghĩa gì lớn cho lắm…, hơn nữa nó còn có thể dẫn tới một sai lầm trầm trọng. Đó là lý do tại sao Người ‘nghiêm giọng truyền cho các ông không được nói với ai điều ấy’. Trước khi cuộc tử nạn xảy ra, đấng Ki-tô mà Đức Giêsu muốn phác họa lên những nét lớn để các môn đệ hình dung và nắm bắt, lại là: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết”. Theo ghi nhận của các thánh sử, thì không dưới ba lần Người đã đề cập tới đề tài này, thế nhưng xem ra bài học vẫn hoàn toàn khó hiểu, vẫn chưa thể lọt vào tai vào đầu các môn đệ.

Chấp nhận một đấng Thiên Sai bị tiêu diệt là cả một nghịch lý đối với bất kỳ người Do Thái nào! Theo họ, đấng Kitô dứt khoát phải toàn thắng vì Ngài phải là vua thống trị vinh quang. Theo họ: giải phóng Ngài mang tới phải là tiêu diệt mọi địch thù, vương quốc của Ngài phải rộng mở tới tận cùng trái đất, và quyền uy của Ngài tồn tại đến muôn đời. Tất cả các môn đệ của Đức Giêsu đều là những người Do Thái nên họ không thể nghĩ khác! Các ông đã rắp tâm theo Ngài là để thống trị chứ đâu phải để bị tiêu diệt, được quyền cao chức trọng chứ đâu phải để phải ngồi vào chỗ rốt hết! Ấy vậy mà Người lại lên tiếng tuyên bố ngược hẳn: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình… phải liều mất mạng sống mình…”

Quả thật tin rằng: có một Thiên Chúa tự hủy dám chết cho tôi là chẳng dễ chút nào. Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa quyền phép, một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt hơn, vì điều đó hoàn toàn hợp với suy luận loài người. Tôi rất mong muốn được cùng Ngài thống trị, vì thế cho nên tôi đòi Ngài phải oai phong hiển hách! Để đạt được mục tiêu này tôi sẵn sàng chấp nhận trả giá, dầu có phải nỗ lực bao nhiêu, phải kiên trì tu thân tích đức, phải hy sinh từ bỏ tới mấy… Tóm lại, tôi vẫn thấy điều này dễ chấp nhận hơn vì tính hợp lý thường tình của nó!

Chấp nhận tin vào một Đức Kitô bị loại bỏ, bị giết chết (vì lòng nhân ái và xót thương) cũng đồng nghĩa với việc, tôi phải đi vào sự hiến dâng mạng sống như Người; đây quả là một thách thức quá lớn! Tông đồ Phaolô đã quả quyết: ai muốn đón nhận và sống lòng từ bi nhân ái như Đức Kitô, thì cũng phải đóng đinh mình vào thập giá với Người. Chỉ có sự tự hiến của Đức Kitô mới có quyền đòi tôi phải từ bỏ và phải tự hủy diệt như thế; chỉ có niềm tin đặt nơi một Thiên Chúa nhân ái và hay thương xót tới mức độ phó nộp chính Con Một của Người mới có thể đòi tôi phải trọn vẹn hiến mình cho tha nhân. Nếu chỉ tin vào một Thiên Chúa quyền phép và công thẳng, thì tôi sẽ chẳng bao giờ có đủ sức đi cho tới cùng con đường tự hiến và hy sinh đâu!

Như thế tôi mới nhận ra: sức mạnh vô địch của Thiên Chúa hệ tại nơi lòng từ bi nhân hậu vô biên của Người. Các Thánh (Don Bosco hay Mẹ Têrêxa chẳng hạn), vì đã được tham gia một phần nhỏ vào sức mạnh nhân ái đó, nên các ngài mới có khả năng toàn tâm toàn lực hiến mình phục vụ tha nhân, đặc biệt những ai nghèo khổ bất hạnh nhất (đối với Don Bosco: hiến mình cho thanh thiếu niên, đặc biệt các em nghèo khổ nhất, đối với Mẹ Têrêxa Kơn-ka-ta: cho những người nghèo nhất trong số các người nghèo khổ).

Ôi, sức mạnh của tình yêu nhân ái quả là vô địch, không gì cưỡng lại nổi!

Lạy Thiên Chúa nhân ái và giầu lòng xót thương, xin cho con hiểu rõ sức mạnh vô địch của Thập Giá; sức mạnh sẽ giải phóng con khỏi một thứ thánh thiện khép kín, ích kỷ và tự tôn; Thập Giá sẽ thông truyền cho con khả năng tự hiến và trao ban. Cho tới nay, dầu đã qua nhiều năm sống đời tu sĩ thánh hiến, sự tự hiến của con vẫn rất nông cạn và nghèo nàn lắm. Xin cho con đi sâu vào lòng lân tuất Chúa, để càng tiến sâu vào, con càng có sức mạnh trao ban và tự hiến cho tha nhân hơn. A-men.

 

43. Chú giải của Noel Quesson

Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình.

Theo Luca, Đức Giêsu bắt đầu bằng việc cầu nguyện mỗi khi có một biến cố quan trọng sắp xảy ra, hay một khúc quanh quyết định xuất hiện trên bình diện con người, trong diễn tiến của cuộc đời. Người: Lúc Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan (Lc 3,21)… Lúc các đám đông nhiệt thân tuôn đến với. Người (Lc 5,16)… trước lúc chọn mười hai tông đồ (Lc 6,12)… trước lúc yêu cầu họ tuyên xưng đức tin (Lc 9,18)… trước lúc biến hình (Lc 9,28)… trước lúc dạy kinh Lạy Cha cho các bạn hữu Người (Lc 11,1)… vào lúc chọn theo thánh ý Chúa Cha trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Lc 22,41)… ngay trước lúc chết trên thập giá (Lc 23,34 và 23,46)… Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đanh cầu nguyện: Khuôn mặt Người, đôi môi Người, tấm lòng Người. Những lúc cầu nguyện của Đức Giêsu chắc chắn là có thật. Hẳn chúng ta sẽ giảm thiểu những lần cầu nguyền ấy nếu chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu chỉ cầu nguyện để nêu gương cho chúng ta. Thật vậy, những lúc cầu nguyện mà Luca kể ra đều trúng vào những thời điểm rất căng thẳng đối với con người. Người thật sự cầu xin sự giúp đỡ của Cha Người để có sức mạnh hoàn thành sư mạng khó khăn của Người cho đến cùng… Người không hề đóng kịch.

Ví dụ như ở đây, rõ ràng chứng ta ở vào một thời điểm then chốt. Đức Giêsu vừa mới thực hiện một dấu chỉ cao cả của Đấng Mêsia là hóa bánh ra nhiều trong sa mạc (Lc 9,10-17). Các đám đông nham hố muốn đưa Người lên làm vua, nhưng Đức Giêsu từ chối vai trò thế tục này (Gioan 6,15) và điều đó sẽ làm cho các đám đông bỏ Người. Vì thế Đức Giêsu muốn thăm dò tâm khảm các tông đồ: Chí ít là họ, họ có tiếp tục theo Người không? Đó là điều không chắc chắn.

Bấy giờ, Đức Giêsu cầu nguyện cho họ, như sau này người sẽ cầu nguyện cho Phêrô “để Phêrô khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32) Tôi có cầu nguyện cho “đức tin” của mình không? Tôi có cầu nguyện khi có những quyết định quan trọng không? Tôi cầu nguyện khi các biến cố bắt đầu xảy đến? Tôi có cầu nguyện cho những người mà tôi có trách nhiệm?

Không cần đi xa hơn trong việc suy niệm, tôi dùng chính giây phút này để cầu nguyện.

Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Đám đông nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại…”

Sau khi đã cầu nguyện, Đức Giêsu hỏi. Quả thật câu hỏi liên quan đến đức tin cá nhân của các bạn hữu Người. Nhưng Người không đặt ngay câu hỏi chủ yếu cho họ. Với một ý thức sắc bén về khoa sư phạm, Người tăng cấp các câu hỏi của Người, và trước tiên đặt một câu hỏi không đưa họ vào chiều sâu để họ dễ trả lời. Nhưng câu trả lời đầu tiên không thể đầy đủ..Lặp lại các ý kiến của những người khác thì quá dễ. Phải dấn thân một cách cá nhân. Phải chọn cho mình một quan điểm. Sau cùng thì “cuộc thăm dò dư luận” cho thấy một sự nhất trí lớn. 100% các đánh đông đều đánh giá rằng Đức Giêsu là một con người tôn giáo rất vĩ đại, một “ngôn sứ”, một người “phát ngôn” của Thiên Chúa, như Luca thường chỉ cho chúng ta thấy (Lc 4,18-19-26-27; 7,11-16-17; 24,19). Đức Giêsu là một Êlia mới, được Thiên Chúa toàn thiêu… một Môsê mới, nhà giải phóng.

Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Bản thân mỗi Kitô hữu phải trả lời câu hỏi này. Nhưng coi chừng, chúng ta không thể gian lận. Đọc kinh Tin Kính mà thôi vẫn thưa đủ! Người ta có thể nói bằng chính miệng mình rằng Đức Giêsu Kitô là “ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, v.v…” và vẫn khẳng định rõ ràng điều ngược lại bằng các hành động có thật của chúng ta. Vấn đề không chỉ làm sự tuyên xưng đức tin bằng lời: Chính đời sống mỗi ngày của chúng ta là câu trả lời chân thật. Chớ gì cung cách, hành động của tôi nói rằng: “Tôi tin Đức Giêsu”.

Ông Phêrô thưa:…

Bên trên các cuộc tranh luận không dứt về quyền bính của Giáo Hoàng và các khuôn mặt quá con người mà quyền bính ấy đã khoác vào trong dòng lịch sử… trên những gắn bó nặng tình cảm hoặc những đố ky sâu xa mà Giáo Hoàng gây ra… Chúng ta không thể không nhận thấy vai trò trổi vượt của Phêrô trong Tin Mừng. Các Giáo Hoàng hiện nay rất ưu tư với việc khôi phục hình ảnh tâm linh chân chính ấy. Trong những giờ phút phân vân, khi đám đông do dự, khi những ý tưởng rõ ràng mờ nhạt và đức tin có nguy cơ suy sụp thì một tiếng nói, ở trái tim và ở trung tâm của Giáo Hội nổi lên, tiếng nói của Phêrô, có trách nhiệm “củng cố anh em của ngài trong đức tin” (Lc 22,32)… và Đức Giêsu đã cầu nguyện cho Phêrô.

Vừa rồi, khi chỉ muốn biết dư luận của quần chúng về các hoạt động rao giảng, người ta đoán rằng mọi môn đệ đều nhanh nhẩu nói ra những điều họ nghe nói. Nhưng khi phải tỏ rõ thái độ rõ ràng hơn thì chính Phêrô là người “mở lời” nhân danh cả nhóm. Tôi cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng hiện nay. Tôi sẽ dành thời gian để đọc lại và đào sâu các sứ điệp của ngài.

Ông Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Câu trả lời của Phêrô do đó đi xa hơn các câu trả lời của đám đông. Chúng ta hãy so sánh ba văn bản mà chúng ta có được về “lời tuyên xưng đức tin” nổi tiếng của Phêrô. Có nhiều cách tuyên xưng đttc tin, tùy theo các cộng đoàn.

Matthêu 16,16                             Máccô 8,29

“Thầy là Đấng Kitô”       “Thầy là Đấng Kitô!”

“Con Thiên Chúa hằng sống.”

                              Luca 8,20

      “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa!”

Chính xác, Phêrô đã nói những lời nào? Người ta không biết được. Tin Mừng không bao giờ là một bài tường thuật thuần túy vật chất. Đối với các độc giả Hy Lạp, Luca thấy cần phải xác định rõ một từ quá Do Thái là từ Mêsia (bản dịch tiếng Hy Lạp là “Christos”) và thêm vào: “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Vả lại từ Christos c&oaoacute; nghĩa là Đấng được xức dầu… Đấng được ‘Thiên Chúa xức dầu, được Thiên Chúa thâm nhập, thấm nhuần!

Vậy Phêrô nhận ra nơi Đức Giêsu điều mà chính Người đã loan báo ngay trong diễn từ đầu tiên ở hội đồng Nadarét: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” ‘(Lc 4,18 và Is 61,I).

Sau mười tám tháng sống với Đức Giêsu, Phêrô nhắc lại điều mà Đức Giêsu nói về mình. Căn tính sâu xa của Đức Giêsu không phải là một thực tại có thể suy diễn từ những quan sát thuần lý: Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận dưới thể thức của “sự mạc khải”. Sự xức dầu của Thần Khí, sự thấm nhuần Thần Khí trên Đức Giêsu không thể thấy được.

Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. Người bảo rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”.

Vâng chỉ có Phục sinh, dưới hai khía cạnh Thập Giá và vinh quang mới cho phép người ta hiểu được Đức Giêsu là ai. Còn giờ đây, các tông đồ được mời gọi không được nói ra căn tính của Đức Kitô.

Nhưng đối với nhóm Mười Hai, sự loan báo này về cuộc khổ nạn đã xuất hiện như một gáo nước lạnh giội vào người. Trong cùng một cảnh tượng, hai Thánh sử Matthêu và Máccô ghi lại rằng Phêrô đã bị quở trách vì không hiểu được cuộc khổ nạn.

Nếu Đức Giêsu đã cầu nguyện thì có lẽ cũng trong miễn cảnh lời loan báo này về các chết của Người. Khi đã nhận thức về vai trò của Đấng Mêsia đau khổ mà Người phải thực thi, Người đã nhìn thấy cai chết của Người hiện ra ở chân trời của tuổi thanh xuân Người, trên những tháng còn lại phải sống ở cuộc đời này… Nếu ngày hôm đó Người đã nói đến cuộc khổ nạn, ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô chính vì Người vừa nghĩ về điều đó nhiều hơn trong lúc cầu nguyện.

Tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu đã chuẩn bị lâu dài cái chết của Người… khi nhìn thấy cái chết ấy đến với người không phải dưới hình thức của một căn bệnh bất trị, không thuốc chữa hoặc sự mòn mỏi của tuổi già như thường xảy ra đối với nhiều người trong chúng ta thấy mình sắp chết… mà dưới hình thức của sự thù ghét lớn lên dần nơi các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư. Đức Giêsu đã chuẩn bị chết như thế nào? Bằng cách cầu nguyện Chúa Cha. Trong chiều hướng này, chữ “phải” mà Người dùng trong câu nói lúc bấy giờ có một ý nghĩa trọn vền. Không phải là một điều tất yếu, một sự cam chịu, một định mệnh…mà là một sự bằng lòng tự nguyện, tuân theo thánh ý của Chúa Cha đã được ghi chép trong Kinh Thánh.

Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ’ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.

Bản dịch “Đức Giêsu nói với đám đông” không chính xác lắm: Bản Hy Lạp thật ra đã viết: ‘ “Đức Giêsu nói với mọi người…”. Luật của thập giá là một luật phổ quát.. Không ai thoát khỏi thập giá. Khi đã loan báo sự đau khổ của Người, Đức Giêsu loan báo cho chúng ta sự đau khổ của chúng ta, hôm nay.

Những lời này của Đức Giêsu khó mà chấp nhận. Để cho những lời ấy trội tuột đi như thể không liên quan gì đến chúng ta thì rất dễ dàng. Quả là đã có một sự thuyết giáo nào đó trong quá khứ về sự đau khổ đã quá cường điệu một thần bí thuyết về “hiến tế” mà người ta tìm thấy trong đời sống của một số thánh nhân: “Hãy đau khổ hết mức có thể, trong thung lũng nước mắt này… để xứng đáng với Thiên Đàng!” Nietzsche. đã bác bỏ quyết liệt sự thích thú hành khổ ấy. Tuy nhiên, không để mình rơi vào những sự thái quá ấy, chúng ta phải khám phá lại giá trị sâu xa của những lời Đức Giêsu mà Người ta không thể loại bỏ khỏi Phúc âm (những lời ấy được thuật lại đến sáu lần!). Những người nào chỉ nói với chúng ta về sự phát triển, chỉ kêu gọi chúng ta hưởng lạc thú là những kẻ nói dối, những con buôn các điều ảo tưởng, và là những kẻ tuyên truyền xấu xa cho tính ích kỷ tầm thường nhất: Không! Không có Người nào xứng danh con người, đã xây dựng một đời sống thành công mà không phải chịu một mức độ “hy sinh” to lớn. Ai không biết quên mình, sẽ không bao giờ biết yêu thương? Ai không biết hy sinh sẽ không biết yêu thương.

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

Đây là một nghịch lý! Mỗi ngày, vâng, mỗi ngày, người ta có thể tự tìm kiếm chính mình hoặc quên mình, giữ mạng sống mình hoặc hiến dâng nó, không yêu thương hoặc yêu thương. Phải luôn luôn lựa chọn.