Đẹp như khúc tình ca
Cuộc đời thánh Valentino Vinh đẹp như một bài thơ và hùng tráng như bản tình ca bất hủ. Quả thật, cuộc đời ngài chỉ vỏn vẹn có 34 năm với ba năm Giám mục, không có nhiều thành quả lẫy lừng, nhưng đã là một thiên tình ca hùng tráng. cuộc đời ấy được đan dệt bằng biết bao biến cố thăng trầm, bao kỷ niệm gian khổ và bao thắng vượt anh hùng. Với tinh thần đơn sơ của một người tràn đầy tình yêu Chúa và tha nhân, ngài đã biến tất cả thành một giai điệu nên thơ. Tất cả những nỗi vất vả đã được vị “Giám mục Hầm Trú” này khoác cho chiếc áo tươi vui bằng thái độ kiên cường, bằng tình yêu nhiệt thành và sự trung tín. Ngài biến đổi chúng bằng những phút chiêm niệm sâu xa và bằng nụ cười bất diệt.
Nỗ lực tuổi trẻ
Valentino Berrio Ochoa xuất thân trong một gia đình quý phái, đạo đức nhưng lại nghèo. Sinh ngày 14 tháng 2 năm 1827 tại làng Elorrico, giáo phận Vich, nước Tây Ban Nha. Cuộc đời Valentino chịu ảnh hưởng rất nhiều của song thân. Cậu học được nơi cha sự cần cù kiên nhẫn, và thừa hưởng nơi mẹ một đức tin sống động, lòng sùng kính Đức Maria và tính vui tươi hòa nhã với mọi người. Đặc biệt với thân mẫu, Valentino vẫn hằng ôm ấp mối tình thắm thiết cả khi đã làm Giám mục mà chúng ta có thể thấy được, vẫn dạt dào trong các lá thư viết về cho bà.
Vì thân phụ thường đóng bàn ghế cho một tu viện Đaminh trong vùng, nên Valentino được vào giúp lễ. Nhờ vậy, cậu có dịp tiếp xúc với cha linh hướng của tu viện, một linh mục dòng Đaminh. Khi rảnh rỗi, cậu đến gặp cha để nghe cha kể chuyện về các vị thừa sai Đaminh tại Việt Nam, về những mẫu gương dấn thân và những cuộc tử đạo anh hùng. Từ đó, cậu bé 12 tuổi ôm mãi trong lòng giấc mộng vàng, là được làm linh mục Đaminh và đến phục vụ tại mảnh đất Việt yêu dấu. Nhưng vì gia đình quá nghèo, cậu phải phấn đấu rất nhiều để biến giấc mộng ước thành hiện thực.
Sáu năm liền, Valentino phải kết hợp ba chương trình: vừa làm mộc giúp phụ thân, vừa trau dồi văn hóa phổ thông và xếp thêm giờ học tiếng Latinh. Theo gương đức Giêsu nơi xưởng mộc Nazareth xưa, cậu kiên nhẫn chờ đợi ý Chúa được thể hiện. Năm 18 tuổi, nhờ sự gíup đỡ của một linh mục, cậu xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Logrono. Tại đây, cậu được các giáo sư, các bề trên và bạn bè quý mến. Mọi người ghi nhận nơi chàng thanh niên này tính chăm chỉ học hành, một nếp sống đạo đức sau xa, khổ chế với chính mình nhưng lại tươi vui với mọi người. Đức Giám mục giáo phận, khi kinh lý làng Elorrio ghé thăm gia đình anh, đã nói với thân mẫu rằng: “Bà Maria ơi, có lẽ con bà sẽ làm đến Giám mục”.
Sau ba năm triết học với thành quả mỹ mãn, hè năm 1848, thày Valentino về thăm gia đình, và thấy cha mẹ già yếu quá vất vả với công việc, thày trở lại xin bề trên được sống ngoại trú, để vừa đi học thần học, vừa có thể phụ giúp gia đình 30 tháng.
Hơn hai năm rưỡi đã trôi qua như thế, mãi tới khi theo lời đề nghị của một cha giáo sư, Đức Giám mục cho thày lãnh chức cắt tóc và đặt thày làm linh hướng dự khuyết của chủng viện. Đây là trường hợp rất họa hiếm nói lên uy tín của thày, tuy còn là sinh viên mà đã được chọn vào một trách vụ thường dành cho những vị linh mục lão thành đạo đức, nhiều kinh nghiệm.
Vị linh hướng đạo đức
Lòng tín nhiệm thày Valentino của Đức cha Irigoyen ngày càng rõ rệt hơn, khi người lần lượt trao ban chức năm, chức sáu và linh mục cho thày chỉ trong một năm (1851). Valentino đã chuẩn bị xứng đáng, và trong niềm hân hoan khôn tả, vị tân linh mục đã viết thư cho thân thân mẫu như sau: “Mẹ yêu dấu của con, hôm qua, ngày 14.08.1851, ngày mộng ước, ngày con được thụ phong linh mục. Con của mẹ giờ đây đã được tình thương Chúa nhắc lên phẩm chất cao cả, đến nỗi các thiên thần cũng phải run sợ.” (thư 16).
Hơn hai năm tận tụy với chức vụ linh hướng đại chủng viện, cha Valentino vẫn ôm ấp giấc mộng vàng thuở thơ ấu. Sau khi bàn hỏi với cha linh hướng dòng Tên tại Loyola, cha xin phép Giám mục qua dòng Đaminh. Lúc giã từ người quen, có người hỏi cha: “Cha đi đâu, và bao giờ chở lại?”. Cha đáp: “Tôi đi để quê tôi có người làm Thánh”. Và cha đã khởi sự quyết định nên thánh đó bằng thái độ từ bỏ dứt khoát: đường từ nhà đến tu viện Ocanã độ ba bốn ngày đường, cha quyết định đi bộ, không giày dép, không tiền bạc. Hành trang duy nhất là cuốn sách nguyện. Sau có người thấy tội nghiệp, tìm cách ép mời cha đi xe ngựa vài đọan đường.
Ocanã, một học viện của tỉnh dòng Mân Côi từ năm 1830, nơi đã đào tạo hai Đức cha An và Xuyên, khi đó đang làm Giám mục chánh và phó giáo phận Trung Đàng Ngoài, đã rộng cửa đón vị linh mục linh hướng nổi tiếng, trao tu phục và sau một năm tập như thường lệ, đã cho cha khấn trọng ngày 12.01.1854.
Ba năm sau, cha tiếp tục giấc mộng thời niên thiếu, nên qua trụ sở tỉnh dòng ở Manila để tìm đường đến Việt Nam. Sáu tháng lênh đênh trên biển cả, chiếc tàu của cha Valentino gồm các thừa sai của ba dòng tu Đaminh, Phanxicô và Augustino. Các vị tổ chức đời sống như một tu viện. Qua thư, cha Valentino thuật lại: các vị cùng nhau dâng lễ, đọc kinh nguyện mỗi ngày. Dịp Tuần Thánh, các vị cũng tổ chức nghi lễ rửa chân, suy niệm Đàng Thánh Giá, bắn pháo bông mừng phục sinh và tổ chức việc suy niệm Đức Mẹ trong tháng hoa nữa.
Ngày 17.06.1857, cha đến Manila trong niềm vui của các anh em dòng tại đây. Anh em ra đón cha tại bến tàu, rồi đưa về thánh dường hát kinh TE DEUM và tạ ơn Đức Mẹ trước bàn thờ Mân Côi.
Biến ưu sầu thành khúc ca vui
Ngày 30.03.1858, cùng với cha Rianõo Hòa và cha Carreras Hiển, cha Berrio Ochoa đạt chân lên đất Việt Nam, đến trình diện cha chính Nam và Đức cha Xuyên tại Kiên Lao. Cơn bách hại đang ở cao điểm: Đức cha An mới bị tử đạo được tám tháng, thủ cấp của Đức cha Xuyên được treo giá vàng, nên thường xuyên ngài phải ẩn nấp.
Trong thư 93 gửi về gia đình, cha Vinh đã ghi nhận: “Cánh đồng truyền giáo này không thấy lấy một ngày quang đãng, không ngày nào không phải cố gắng giữ nét vui tươi. Không ngày nào không có đau thương để khóc, không có lo toan để tìm phương bổ cứu, không có kẻ lạ mặt theo dõi hay quan quân truy lùng”.
Sườn núi Canvê trơn dốc của cha Vinh đã bắt đầu. Tại đây tất cả đều còn lạ lẫm: Ngôn ngữ, tập quán, đường đi, con người và bao nhiêu thứ phải làm quen, phải học. Thế mà chỉ mới mấy ngày sau khi chào vị chủ chăn giáo phận, vì tình hình an ninh, mỗi vị phải chia tay nhau ẩn náu mỗi người một phương. Tuy mới chân ướt chân ráo đến vùng truyền giáo, cha Vinh phải vận dụng sự khôn ngoan sáng tạo để hòan thành những công tác mục vụ, thăm viếng. Tất cả mọi việc đều phải lén lút.
Hai tháng rưỡi trôi qua, tuy tiếng Việt nói chưa thông, nhưng tài năng và nhân đức của vị linh mục trẻ tuổi này đã được khẳng định. Đức cha Sampedro Xuyên, trước nguy cơ có thể bị bắt, đã chuẩn bị cho tương lai của giáo phận, ngài dùng quyền Tòa Thánh để chọn một Giám mục phó có quyền kế vị. Ngài đã chọn cha Berrio Ochoa Vinh. Đây là tâm sự của vị được tiến chức: “Thưa Đức cha, nếu được thì xin cất chén đó cho con. Con thấy lòng tràn ngập lo lắng, áy náy khi nghĩ đến địa vị mà Đức cha muốn đặt con lên. nhưng điều mà môi miệng con nói thì con cũng xin nói cả tấm lòng, đó là xin vâng trọn ý Chúa, bây giờ và đời đời chẳng cùng”.
Giám mục “gậy tre mũ giấy”
Lễ tấn phong Giám mục Valentino Vinh, quả thực có một không hai trong lịch sử Giáo hội. Đêm 25 rạng ngày 26.06.1858, Đức cha Xuyên cử hành lễ tấn phong trong nhà ông trùm Chi ở Ninh Cường. Lễ nghi được tiến hành âm thầm giữa đêm thâu, không một tiếng hát, không một người tham dự. Hai cha Riano Hòa và Carreas Hiển là thụ phong, bao tay, vớ tất không có, mũ ngọc của tân Giám mục làm bằng giấy bìa cứng cũng phủ giấy tráng kim, gậy ngọc là một cây nứa, đầu gậy cuốn bằng rơm cũng được bọc giấy tráng kim. Việc chuẩn bị cho ngày lễ, chúng ta hãy nghe ngài thuật lại trong thư gửi cho cha Orge ở Manila.
“Con thú thật rằng, con muốn thoát khỏi vòng ràng buộc này. Nhưng biết bao lần Đức cha đã bảo con, nên theo lương tâm, buộc con phải vui nhận việc tuyển chọn. Con không giám cưỡng ý Chúa đã rõ rệt. Sau ngày được tuyển chọn, con chỉ còn vừa đủ thì giờ để cấm phòng. Con lắng nghe Ngài phán trong thinh lặng, không có lấy một cuốn sách nào giúp tĩnh tâm, mà có tìm cũng không ra . Không phải chỉ thiếu sách cấm phòng, nhưng chiều áp lễ tấn phong, thấy rằng chỉ có độ một nửa khăn áo cần dùng trong nghi lễ, Đức Giám mục đại diện Tông tòa và con phải vội vàng hai tay kim chỉ đóng vai thợ may. Tạ ơn Chúa, tới đúng giờ đã định, chúng con cũng có ít khăn áo xứng đáng.” (Thư 79).
Nếu thánh Phaolô xưa tự nhận mình là tông đồ sinh non, vị tân Giám mục cũng tự nhận là Giám mục sinh non, sinh thiếu tháng. Chưa đầy ba tháng trên đất Việt với số tuổi 31, thế mà giờ đây phải quan tâm săn sóc một giáo phận trên 150 ngàn giáo hữu giữa cơn cuồng phong bách hại ác liệt nhất. lúc này đây, ngoài Chúa ra, ai có thể cảm thông được nỗi ưu tư của ngài ?
Sau ngày tấn phong, hai Đức cha và hai linh mục lên xứ Quần Cống. Được ít hôm, quan án sát Nam Định đến bao vây làng này, khiến mỗi vị phải đi một ngả. Đức cha Vinh phải chạy sang Trà Lũ, Đức cha Xuyên qua làng Thôn Đông, rồi đến Kiên Lao thì bị bắt ngày 08.07, và bị xử lăng trì ngày 28.07.1858. Từ nay, Đức cha Vinh phải một mình lãnh trách nhiệm toàn giáo phận Trung. Theo ý vị tiềm nhiệm, Đức cha bỏ giáo phận trốn qua tỉnh Hải Dương, là nơi cuộc bách hại còn lắng dịu. Sau bốn ngày vượt sông băng lạch, ngài đến Cao Xá, tỉnh Hưng Yên, rồi tới nơi Đức cha Hermosilla Liêm và cha Almato Bình trú ẩn. Được ít lâu, ngài đã tìm được nơi trú ẩn mới trong vườn nhà anh Thăng, làng Hương La, xử Tử Nê (Bắc Ninh). Gia chủ đã đào cho ngài một hầm trú ẩn khá an toàn. Chính tại hầm này, vị “Giám mục hầm Trú” đã thành lập tòa Giám mục trong gần trọn đời Giám mục của ngài.
Giám mục hầm trú
Khi nghe tin Đức cha Xuyên tử đạo, dầu kiên nhẫn và bình tĩnh, Đức cha Vinh đã phải phát biểu nửa đùa nửa thật rằng: “Đức Giám mục khả kính Sampedro Xuyên để lại cho tôi một gánh quá nặng. Ngày nào tôi nhoai đến thiên cung, tôi sẽ tố cáo ngài”.
Trong thư gửi cho một linh mục bạn, ngài viết: “Tôi còng lưng gánh một gánh mà tôi sợ, rất sợ, sợ đổ vỡ dọc đường.”. Sau đó, Đức cha tìm mọi cách trở về với giáo phận, nhưng không thể được, vì cơn bách hại tại giáo phận Trung qua khắc nghiệt.
Theo cha M. Gispert, có một lần duy nhất trong đời Giám mục, Đức cha Vinh về xứ Kẻ Mèn, thuộc giáo phận Trung. Nơi đây, cùng với cha Riano Hòa, hai vị tuyên thệ xây cất một Thánh đường dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm, và nhận người làm bổn mạng của giáo phận, nếu Chúa ban cho Giáo Hội thoát khỏi cơn bách hại và hưởng thái bình. Lời tuyên thệ này về sau khi cha Hòa làm Giám mục đã thực hiện. Đó là thánh đường sau ba lần tái thiết, nay là một thánh đường kiểu Gothique nguy nga dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Phú Nhai.
Trở lại vị Giám mục hầm trú tại Hương La. Sáu tháng đầu, ngài sống chung với Đức cha Alcazar Hy, Đức cha phó giáo phận Đông, cho đến khi vị này phải rời xứ truyền giáo tạm lánh qua Macao. Chính tại hầm trú này, Đức cha điều hành giáo phận gần trọn ba năm. Nơi đây, ngài sống như một ẩn sĩ, nhưng vẫn là linh hồn của giáo phận Trung. Sinh hoạt thường ngày của ngài là cầu nguyện, hy sinh, viết thư cho các linh mục và các giáo xứ bên giáo phận. Hỗ trợ Đức cha có bốn địa chủng sinh và ông lang Thư, người Cao Xá, trong việc sao chép thư luân lưu, cũng như việc liên lạc.
Thật đáng khâm phục, trong cảnh dầu sôi lửa bỏng như thế, Đức cha vẫn hướng về ánh sáng cuối đường hầm, vẫn nhìn trời xanh qua kẽ lá, vẫn chuẩn bị cho Giáo Hội tương lai trong hòan cảnh tưởng như tuyệt vọng này. Trong hầm trú, ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn, dạy thần học cho một chủng sinh, huấn luyện các linh mục tương lai. Để ôn thêm và để việc huấn luyện được đầy đủ, giữa khung cảnh bão táp ấy, ngài viết thư cho cha quản lý ở Macao, xin gởi cho cha bộ Tổng Luận thần học, bộ Contra Gentiles của thánh Tôma và nhất là bộ Giáo Luật.
Ba năm trải qua như thế. Tất cả ở dưới hầm trú, trừ đôi lần giữa đêm, ngài ra khỏi đó để thăm và xưng tội với Đức cha Liêm, hoặc đi giúp các bệnh nhân, nhưng không vượt ra khỏi ranh giới hai làng Đức Trai và Tử Nê. Một vài lần, ngài phải cuốn gói chạy trốn qua một hầm khác để tiếp tục ẩn nấp. Thực tả sao cho xiết nỗi cơ cực và nỗi khổ ngài chịu. Cơ cực vì hầm chật chội, ngột ngạt, ăn uống thiếu thốn . Khổ tâm vì không thể về với giáo phận mình, trong khi cơn bách hại ngày càng gia tăng. Các hung tin được loan báo tới tấp: Một, hai . rồi 18 linh mục tử đạo, các thày giảng và biết bao giáo hữu bị ngã gục vì đức tin chân chính. Trong một thư gửi cho Thánh Bộ Truyền Giáo, cha viết: “Rất có thể trong ít tháng nữa, giáo phận của tôi chẳng còn thừa sai, chẳng còn linh mục, không chủng sinh, không thày giảng và không biết còn nên nói thêm chăng, không còn bổn đạo” (Thư 93).
Vui tuơi và xả hỷ
Tuy sống gian khổ như thế, Đức cha Vinh đã không một lời rên rỉ, không một tiếng thở than. Cái “chương trình” thánh thiện trong vui tươi của anh chủng sinh vừa học vừa làm thời niên thiếu, giờ dây ngài vẫn trung thành thực hiện. Ta có thể thấy điều đó trong một thư gửi cho thân mẫu vào tháng 08.1860:
“Mẹ chí yêu lòng con,
“Mẹ hỏi con sống thế nào, ăn uống làm sao ? Mẹ quý mến của con ơi ! Con sống tươi lắm, con làm Giám mục cơ mà ! Còn thức ăn ngày nào cũng có. Đừng lo mẹ ạ, chúng con chẳng đói đâu. Nhưng mẹ tưởng hễ làm Giám mục là phải ngồi ngựa à ? Không, chúng con tuột giầy ra giữa đêm hôm tăm tối, nhoài hết chỗ lội này đến quãng lội khác, vậy mà cứ vui thôi. Một hôm, con lội sáu dặm đường, trên mưa tuôn, dưới bùn trơn, con ngã soành soạch không biết bao nhiêu lần. Tuy là Giám mục, con cũng ướt như chuột và lấm bùn be bét. Nhưng giáo hữu ở đây tốt lắm, về tới nhà đã thấy họ đổ nước cho con tắm rửa sạch sẽ để chuẩn bị dâng lễ.
“Ồ có lẽ mẹ bảo: Vinh nhỏ của mẹ ơi, sống thế xìu lắm ! Không, chả buồn chả xìu chút nào mẹ ạ. Ở đây người ta sống mạnh, sống tươi, nhanh nhẹn lắm. Chúa an ủi chúng con trong lao nhọc. Con tuy là “trai già” mà nhảy qua vũng lội vẫn lẹ như sóc ấy. Mẹ ạ, Vinh trước đã là đứa con nhảy nhót qua núi đồi thì nay bộ mặt đầy râu của nó, cũng sẽ làm những tên quỷ già nhất ở trong hỏa ngục phải run sợ.”(Thư 116).
Quả thực, phải có tâm hồn tươi trẻ và siêu nhiên mới có được thái độ và lời lẽ như vậy, vừa dí dỏm vừa tươi vui pha chút đùa bỡn nữa. Những lá thư như thế phản ảnh được sự bỏ mình và nét tươi trẻ của vị Giám mục tử đạo 34 tuổi xuân này. Thực là cái vui của các vị thánh, của những tâm hồn đầy Chúa. Chẳng bao lâu nữa, vẫn với niềm vui tươi và tính đơn sơ phó thác ấy, ngài giơ đầu đón nhát gươm lý hình, và trên khuôn mặt đẫm máu đào của ngài, còn ánh lên nét tươi vui.
Tháng 8.1861, chiếu chỉ phân sáp của vua Tự Đức như một cơn hồng thủy tràn lan mọi thị xã cũng như thôn quê. Làng Hương La cũng không thể yên ổn được nữa. Đức cha Vinh liền xuống thuyền với linh mục Almato Bình, xuôi dòng xuống Hải Dương. Tại đây, may mắn hai vị gặp Đức cha Liêm và thày Khang đang ở trên một thuyền khác trong bầu không khí thân mật và cảm động. Nhưng sau đó, thuyền ngài lại phải tiếp tục cuộc hành trình. Các giáo hữu giới thiệu hai vị trọ nhà một người ngoại giáo làm phó lý ở gần đó. Không ngờ cháu ông này đi báo với quan, khiến hai vị bị bắt ngày 25.10.1861 và bị đóng cũi giải về Hải Dương. Tại đây, hai vị gặp Đức cha Liêm trong một cũi khác, ngài đã bị bắt trước đó năm ngày.
Ngày 01.11.1861, ba vị thừa sai cùng bị đem đi xử. Quân lính áp giải đông như đi rước. Cũi Đức cha Vinh đi giữa hai vị kia. Ngài bình tĩnh ngồi cầu nguyện như thói quen, nét mặt tươi tỉnh khiến mọi người phải ngạc nhiên. Tại pháp trường Năm Mẫu, sau ít phút cầu nguyện, lý hình đã chém đầu các ngài theo hiệu chiêng trống. Thi thể ba vị tử đạo được chôn tại đó, sau được cải về Thọ Ninh, rồi Kẻ Mốt. Đến đời Đức cha Hiển, thi thể Đức cha Vinh được gởi về Macao, và sau cùng được đem về quê hương của ngài.
Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn Giám mục Valentino Berrio Ochoa Vinh lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP