Sau cuộc gặp gỡ xã giao với tổng thống Sri Lanka, lúc 6h45 chiều thứ Ba 13 tháng Giêng, 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo các tôn giáo tại Bandaranaike Memorial International Conference Hall cách dinh tổng thống khoảng 4km, gần với quảng trường Độc Lập nơi vẫn thường diễn ra các lễ tuyên thệ tổng thống Sri Lanka.
Trong những năm gần đây, Sri Lanka đã vướng vào những xung đột tôn giáo trầm trọng. Mặc dù trong cuộc xung đột này cũng không thiếu những trường hợp các nhà thờ Kitô Giáo bị đốt hay phá phách nhưng chủ yếu là xung đột giữa Phật Giáo và Hồi Giáo.
Tác nhân chủ yếu là phong trào Bodu Bala Sena gọi tắt là BBS được thành lập bởi hai nhà sư là Kirama Wimalajothi và Galagoda Aththe Gnanasaara với hội nghị đầu tiên vào ngày 28 tháng 7 năm 2012. BBS là thế lực Phật Giáo mạnh nhất tại Sri Lanka được chế độ của cựu tổng thống Rajapaksa ngầm ủng hộ. Phong trào này đã gây ra nhiều vụ tấn công bạo lực nhắm chủ yếu vào các cộng đồng Hồi Giáo tại Sri Lanka.
Trước chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô, BBS đã mở nhiều chiến dịch nhằm tẩy chay chuyến viếng thăm này. Mười ngày trước chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Sri Lanka, quốc gia này đón nhà sư Wirathu của Miến Điện đến thuyết pháp nhằm hô hào tẩy chay chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Tuy nhiên, vẫn có hàng trăm nhà sư đến dự và họ im phăng phắc lắng nghe Đức Giáo Hoàng nói về khoan dung tôn giáo.
Đức Thánh Cha đã cám ơn sự lắng nghe của các nhà sư như sau:
“Các bạn thân mến, tôi cảm ơn các bạn một lần nữa vì sự chào đón hào phóng của các bạn và sự chú ý của các bạn. Cầu xin cho cuộc gặp gỡ huynh đệ này củng cố tất cả những nỗ lực của chúng ta để sống hòa hợp và để truyền bá những phước lành của hòa bình.”
Khi so sánh với chuyến tông du của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào ngày 20 tháng Giêng, 1995, nhiều người không ngại nói một cách có phần quá đáng rằng đây là một phép lạ.
Chuyến tông du của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Sri Lanka
Thật vậy, chuyến tông du của thánh Giáo Hoàng đã được chào đón một cách lạnh nhạt. Cuốn sách “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của ngài được xuất bản vài tháng trước đó, vào năm 1994, đã được dịch ra 40 thứ tiếng và chỉ riêng tại Italia đã bán được hàng triệu cuốn. Tuy nhiên, cuốn sách này gây xôn xao trong giới Phật Giáo vì một nhận xét rất xác đáng của ngài: “Sự giác ngộ mà đức Phật đã trải qua xuất phát từ niềm tin rằng thế giới này là xấu.” Thánh Giáo Hoàng cũng bình luận về khái niệm nirvana (người Việt gọi là “niết bàn” – một trạng thái thờ ơ hoàn toàn với thế giới) và đặt câu hỏi: “Liệu chúng ta có đến gần với Thiên Chúa hơn khi xa lánh cuộc đời này không?”
Chính phủ Sri Lanka bị nhiều áp lực hủy bỏ chuyến tông du của ngài, nhưng họ vượt qua được.
Khi đến Colombo, Đức Gioan Phaolô II cẩn thận trích dẫn kinh điển Dhammapada và đề cập đến những giá trị của tình yêu, từ bi, hỉ xả, thông cảm và an nhiên tự tại mà các Phật tử tôn vinh. Ngài nói: “Tôi bày tỏ sự kính trọng cao nhất của mình đối với các tín đồ Phật giáo”.
Dù thế, chẳng có mấy nhà sư đến dự cuộc gặp gỡ với ngài, thậm chí một nhà thờ còn bị đốt!
Ashin Wirathu là ai?
Ashin Wirathu là nhân vật đã được tờ Times trong số ra ngày 20 tháng Sáu năm 2013, đưa lên trang bìa với nhan đề “The Face of Buddhist Terror”, nghĩa là “Bộ mặt của khủng bố Phật giáo”; trong đó tờ này cáo buộc ông là người đứng đằng sau tất cả những biến loạn đang diễn ra tại Miến Điện.
Nhà sư Ashin Wirathu là người nổi tiếng tại Miến Điện với những bài phát biểu nẩy lửa đầy hận thù kêu gọi các Phật tử nước này hãy thức tỉnh trước nguy cơ bị Hồi Giáo hóa, mặc dù trong tổng số 57 triệu dân 88% là Phật tử và người Hồi Giáo chỉ có 4.3%. Các Kitô hữu chiếm 6.3%.
Không những nổi tiếng tại Miến Điện, Nhà sư Wirathu còn nổi tiếng trên thế giới vì đã dám chửi đặc phái viên nhân quyền Liên Hiệp Quốc là bà Yanghee Lee bằng những từ rất hạ cấp mà chúng tôi không dám nêu ra ở đây.
Wirathu sinh năm 1968, đến năm 14 tuổi thì bỏ học để đi tu.
Năm 2003, ông đã bị kết án 25 năm tù giam vì tham gia vào một tổ chức rất cực đoan nhằm chống lại người Hồi Giáo nhưng được trả tự do vào năm 2010 cùng với các tù nhân chính trị khác.
Sau khi ra tù, Wirathu sử dụng rất thành công các phương tiện truyền thông xã hội. Ông truyền bá thông điệp chống Hồi Giáo của mình bằng cách đăng các bài giảng trên YouTube và Facebook, thu hút hàng trăm ngàn người theo dõi và nhanh chóng được tôn vinh là nhà lãnh đạo tinh thần của 969 nhóm bảo vệ Phật pháp.
Bài giảng của ông chủ yếu dọa các Phật tử về nguy cơ bị Hồi Giáo hóa. Ông lặp đi lặp lại các tuyên bố vô căn cứ về tỷ lệ sinh sản của người Hồi Giáo và tổ chức các cuộc biểu tình kêu gọi tống cổ người Rohingya sang một nước thứ ba.
Ông cũng tuyên bố rằng phụ nữ Phật giáo đang bị người Hồi Giáo buộc cải đạo bằng vũ lực và dẫn đầu các cuộc biểu tình rầm rộ đòi sửa đổi hiến pháp nhằm ngăn chặn phụ nữ Phật giáo Miến Điện không được kết hôn với nam giới thuộc các tôn giáo khác mà không có sự cho phép chính thức của các nhà sư.
Ít ai dám chống lại ông vì ông chủ trì một tu viện Phật giáo có tới 2,500 nhà sư tại Mandalay; và được sự hậu thuẫn tuyệt đối của quân đội, của những tướng tá cùng một quan điểm với ông là Phật giáo tại Miến Điện đang bị lâm nguy, và người dân Miến Điện cần phải có một quân đội hùng mạnh để bảo vệ Phật pháp.
Một chính phủ trên danh nghĩa là dân sự nhưng sau gần nửa thế kỷ bị cai trị bởi quân đội, vẫn chưa hoàn toàn tự chủ, nên nếu quân đội ủng hộ ông thì chính quyền cũng chẳng có ai dám chống lại ông. Hơn thế nữa, nhiều người tin rằng chính quyền Miến Điện để yên cho Wirathu, vì ông nói lên chính quan điểm của họ, về người Rohingya, và về đạo Hồi, mà họ không thể tự mình nói lên vì những lý do ngoại giao.
Ngôi chùa Kaba Aye
Chùa Kaba Aye là một ngôi chùa nằm cách Yangon khoảng 11 km về phía bắc. Nó được xây dựng vào năm 1952 bởi U Nu để chuẩn bị cho Hội đồng Phật giáo Thứ Sáu mà ông ta tổ chức trong hai năm từ năm 1954 đến năm 1956. Chùa có kích thước tất cả đều là 34 thước: Tháp chùa cao 34 m, chiều dài và chiều rộng cũng 34 m. Chùa Kaba Aye mở cửa từ 6 giờ sáng đến 8 giờ tối hàng ngày. Khách tham quan mua vé vào cửa với giá 5 Mỹ Kim.
U Nu là Thủ tướng đầu tiên của Miến Điện sau khi Hiến pháp Liên minh Miến Điện năm 1947 được thông qua. U Nu là một Phật tử mộ đạo và ông đã cố gắng thiết lập Miến Điện như là một quốc gia Phật giáo. Vào ngày 29 tháng 8 năm 1961, Quốc hội tuyên bố rằng Phật giáo là tôn giáo chính thức của quốc gia này, chủ yếu là do những nỗ lực của U Nu. Giết mổ bò chính thức bị cấm ở Miến Điện. Tuy nhiên, năm 1962 Ne Win, người kế vị U Nu, đã bãi bỏ những cấm đoán này và chấm dứt những nỗ lực để làm cho Miến Điện một quốc gia Phật giáo.
Có rất nhiều dân tộc thiểu số ở Miến Điện, chẳng hạn như người Kachins và Karens, cảm thấy bị gạt ra ngoài lề xã hội bởi những nỗ lực nâng Phật giáo lên hàng quốc giáo Hơn nữa, nhiều Phật tử cũng không tin rằng Phật giáo nên là một phần của một thể chế chính trị. Họ muốn Miến Điện là một xã hội đạo lý nhưng không muốn tôn giáo của họ bị áp đặt lên các công dân khác. Nhiều nhà sư muốn Phật Giáo độc lập, không lệ thuộc nhà nước, đã không liên kết với những ngôi chùa quốc doanh. Những nhà sư như thế đều không muốn dính líu đến Kaba Aye.
Vụ đánh bom năm 1996
Vào ngày 25 tháng 12 năm 1996, hai quả bom phát nổ tại chùa Kaba Aye và Động Maha Pasana, bên trong ngôi chùa này, giết chết năm người và làm bị thương 17 người khác. Vụ nổ ban đầu diễn ra tại chùa Kaba Aye lúc 8:20 tối nhưng không ai bị thương. Tuy nhiên, vụ nổ thứ hai nổ ra hai giờ sau đó đã gây tử vong và thương tích.
Cho đến nay, nhiều người vẫn cho rằng hai vụ nổ này đều là do chính quân đội Miến Điện gây ra nhằm có cớ đàn áp những người đối lập.
Việc xây dựng chùa Kaba Aye của U Nu, và vụ nổ năm 1996, theo ý kiến nhiều người, đều phản ảnh những nỗ lực muốn lèo lái Phật Giáo của các thế lực chính trị tại Miến Điện.
Nguồn tin: VietCatholic News