Hỏi: xin cha giải thích lại những tội nghịch điểu răn thứ bảy và thứ mười.
Trong một bài trước, tôi đã có dịp nói về hai điều răn này. Nay xin được nói rõ thêm những tội phạm lỗi hai điều răn này như sau:
Trong Mười Điều Răn Của Chúa thì, hai điều răn thứ bảy và mười có liên hệ với nhau vì cùng cấm con người không được lấy hay ước muốn lấy của người khác những gì không thuộc sở hữu của mình.
Riêng giới răn thứ mười có liên hệ đến hai giới răn thứ bảy và thứ chín cấm lấy của người và cầm thèm muốn vợ hay chồng của người khác ( giới răn thứ chín). Trong thực tế thì tội lỗi điều răn thứ bảy và thứ mười là những tội con người ở khắp mọi nơi đã và đang phạm ở mức độ qui mô và không kém nghiêm trọng so với các tội khác.Cái lầm lớn lao của rất nhiều người là cho rằng lấy của chánh phủ hay của các công ty lo dịch vụ xã hội như hãng bảo hiểm, xe , nhà v.v là không có tội ! Vì thế người ta cứ an tâm khai gian, chứng dối để trốn thuế, và lấy tiền của người khác cách sai trái với lương tâm và luật công bằng của Chúa..
Thực ra, phải hiểu rằng Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương nhưng cũng rất công bằng khi phán đoán con người.Vì thể tôn trọng công bằng là điều đẹp lòng Chúa cũng như thi hành bác ái để cụ thể nói lên lòng yêu mến Chúa, là Đấng yêu thương mọi người và muốn con người phải yêu thương, giúp đỡ và an ủi nhau trong cuộc sống. Vì thế thực thi bác ái là rất điều đẹp lòng Chúa vì như thế chứng tỏ cách hùng hồn con người biết cảm thông sự đau khổ và thiếu thốn tinh thần và vật chất của anh chị em mình, không phân biệt mầu da, ngôn ngữ ở khắp nơi.
Luật công bằng của Chúa đòi buộc ta phải tôn trọng tài sản, tiền bạc và danh dự của người khác như chính của riêng mình. Đó là lệnh truyền của Chúa trong Bản Thập Giới tức Mười điều răn mà giáo lý của Giáo Hội nhắc lại như sau:
“ Cấm lấy hoặc giữ của cải của tha nhân cách bất công hoặc làm hại tài sản của tha nhân bất cứ cách nào.”(SGLGHCG, số 2401).
Luật này dựa trên chính lời Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái xưa kia sau khi họ được giải thoát khỏi Ai Cập: “Ngươi không được trộm cắp.” (Xh 20:15)
Liên quan đến giới răn này,Thiên Chúa cũng cấm con người ” không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò, con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta . ( x Xh 20:17; Đnl 5:21)
Như thế điều răn thứ mười không những có liên hệ đến điều răn thứ bảy vì cùng cấm con người không được lấy hay thèm muốn, ước ao muốn lấy bất cái gì thuộc sở hữu của người khác như vợ, chồng của người khác và mọi vật không thuộc quyền sở hữu của mình. Về một khía cạnh, điểu răn thứ mười có liên hệ đến giới răn thứ chín cấm ” thèm muốn vợ (hay chồng) của người khác”, vì thèm muốn như vậy sẽ dẫn đến thông dâm ( fornification) ngoại tình (adultery) và hiếp dâm ( rape) là những tội nặng thuộc giới răn thứ sáu phải tránh. Lại nữa, thèm muốn của cải của người khác cũng dẫn đến trộm cắp và lừa đảo để chiếm hữu tài sản hay tiền bạc của người khác cách trái phép.
Tuy nhiên, nếu thấy người khác giầu có, khỏe mạnh và thành công trong xã hội mà mình cũng ước muốn được như họ bằng phương tiện chính đáng như cố gắng học hành, săn sóc sức khỏe và làm ăn lương thiện để có tiền thì không những không có tội gì mà còn được khuyến khích trong ước muốn tốt đẹp này nữa. Chỉ khi nào ước muốn lấy cái gì của ai, rồi sinh lòng ghen ghét người khác hơn mình về danh vọng, địa vị xã hội và tiền bạc thì đó mới là điều phải tránh vì lỗi đức bác ái và công bằng.
Giáo lý của Giáo Hội nói rõ về nội dung giới răn thứ mười như sau:
” Điều răn thứ mười cấm chỉ sự thèm muốn, tức ước ao của cải trần gian cách vô độ; nó cũng cấm tính tham lam thái quá, sinh ra từ sự đam mê vô độ, sự giầu có và quyền lực do sự giầu sang mang lại. Điều răn này cũng cấm để lòng phạm những điều bất công, làm thiệt hại tài sản của tha nhân.” ( x. SGLGHCG số 2536) Nghĩa là không ai được phép lấy hay ước muốn lấy bất cứ của gì , vật gì kể cả vợ hay chồng của người khác.
Sau này, khi trả lời cho người thanh niên giầu có đến hỏi Chúa Giêsu, xem anh ta phải làm gì để được sống đời đời, Chúa cũng đã nhắc lại lệnh cấm trên “Ngươi không được trộm cắp…”. (Mt 19:18). Trộm cắp Chúa nói ở đây bao gồm mọi hình thức lấy của người khác những gì thuộc sở hữu của họ như tiền bạc, đồ vật, đất đai, nhà cửa, xe cộ, máy móc… Như thế đủ cho thấy giới răn thứ bảy và thứ mười quan trọng thế nào trong đời sống đức tin của người tín hữu Chúa Kitô. Nếu không quyết tâm đi tìm Chúa và hạnh phúc Nước Trời, mà chỉ ham mê tìm kiếm những sự đời này như tiền bạc, danh vọng và mọi thú vui vô luân, vô đạo thì hãy suy gẫm lời Chúa sau đây:
” ..Người nào được lợi lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình hay thiệt thân, thì nào được ích lợi gì ? ( Lc 9:25)
Thử hỏi: có mấy ai được lợi lãi cả và thế gian này đâu. Nhưng cho dù có người chiếm được mọi của cải và danh vọng trên trần gian này, mà cuối cùng mất sự sống, mất linh hồn vì không được cứu rỗi thì những lợi lãi to lớn kia có bù đắp được không, hỡi những ai khờ dại, chỉ ham mê tìm kiếm lợi lãi hư vô ở đời này mà quên lãng tìm kiếm sự sang giầu vĩnh cửu của Nước Trời ?
Do đó, phải tuân giữ các giới răn thứ bảy và thứ mười vì những lý do sau đây:
1. Tôn trọng đức công bình (justice): Thiên Chúa là Đấng công chính và giầu tình thương (a just and merciful God). Ngài giầu lòng xót thương, nhưng không thể chấp nhận bất cứ điều gì là bất công và gian dối. Ngài phán đoán con người dựa trên hai tiêu chuẩn công bình và bác ái. Do đó, ai không yêu thương và thực thi công bình, thì chắc chắn không thể đẹp lòng Chúa và thuộc về Người là tình thương và là chính sự công bình. Đức công bình đòi buộc mọi người phải tôn trọng đúng mức tài sản, danh dự và tính mạng của người khác như chính mạng sống, danh dự và tài sản của mình.
2. Quyền tư hữu chính đáng mà mọi người được hưởng trong tình thương và công bình của Chúa, là Đấng đã ban phát nhưng không mọi của cải, tài nguyên thiên nhiên cho con người hưởng thụ miễn phí (gratuitous). Về quyền này, giáo lý của Giáo Hội dạy như sau:
“Tài sản trong vũ trụ là để dành cho tất cả loài người. Tuy nhiên, trái đất được phân chia giữa con người với nhau, để bảo đảm an toàn cho cuộc sống của mọi người khỏi nguy cơ đói khổ và bạo động. Sự tư hữu tài sản là điều chính đáng, nhằm bảo đảm tự do và phẩm giá của mọi người và cũng để giúp nhau đáp ứng, những nhu cầu căn bản của riêng mình và lo cho nhu cầu của những người thuộc trách nhiệm coi sóc của mình….. . Quyền tư hữu , thủ đắc cách chính đáng, không ảnh hưởng gì đến quyền sử dụng quà tặng chung, là trái đất mà Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Mặc dù mục đích sử dụng của cải chung vẫn giữ ưu thế nhưng lợi ích chung vẫn đòi hỏi tôn trọng tư hữu và quyền có tư hữu ” (Sđd, số 2402- 03)
Như thế, Giáo Hội nhìn nhận quyền tư hữu tài sản của con người và mọi vị phạm đến quyền này đều trái với đức công bình đòi buộc mọi người phải tôn trọng tài sản, danh dự và mạng sống của người khác. Chế độ cai trị nào không tôn trọng quyền tư hữu của người dân để cưỡng chiếm đất đai, nhà của của dân hay của các giáo hội và cơ quan từ thiện – đều vi phạm quyền căn bản này của Thiên Chúa ban tặng mà mọi xã hội loài người văn minh phải tôn trọng vì phúc lợi chân chính của con người như Giáo Hội có bổn phận nhắc nhở trên đây
Trong tinh thần đó, những hành vi sau đây được coi là vi phạm điều răn thứ bảy cấm lấy của người:
a. Ăn cắp tiền bạc, và chiếm đoạt những gì thuộc quyền sở hữu của người khác như đất đai, nhà cửa, xe tầu, ruộng vườn, quần áo, đồ vật gia dụng v.v Như vậy ai chiếm giữ đất đai, nhà cửa, của người dân, nơi thờ phượng của các giáo hội là vi phạm quyền tư hữu chính đáng được pháp luật của xã hội văn minh ở khắp nơi nhìn nhận và đòi hỏi phải tôn trọng. Không thể viện bất cứ lý do nào để bênh vực cho sự chiếm hữu bất hợp pháp này. Ai a dua bênh vực cho sự cưỡng chiếm này là cộng tác vào sự bất công, và luật pháp rừng rú.
b. Bóc lột sức lao động của người dân mà không đền bù xứng đáng. Chủ nhân các công ty hay hãng xưởng mướn công nhân mà trả lương không đúng luật lao động và tiêu chuẩn chuyên môn của người làm công cho mình là lỗi luật công bình. Thí dụ, bóc lột người lao động không có giấy tờ cư trú hợp pháp (undocumented workers), để trả lương họ dưới mức qui định của luật lao động. Hoặc bắt họ làm thêm giờ mà không trả tiền tiền phụ trội cho họ. Cũng lỗi điều răn thứ bảy, những người làm cân đo không chính xác để đong bán hàng hóa sai cân lượng với mục đích kiếm thêm nhiều tiền lời.
Giáo lý Giáo Hội cũng liệt kê những việc làm trái với điều răn thứ bảy như sau :
“Cũng kể là bất chính về mặt luân lý, những việc làm như đầu cơ tích trữ để thay đổi giá cả cách giả tạo để thủ lợi và làm thiệt hại người khác, hối lộ để làm sai lệch những quyết đoán của người thi hành luật pháp; lấy làm củariêng hoặc sử dụng cho riêng mình những tài sản của xã hội hoặc của xí nghiệp; hoặc làm ăn cẩu thả gây thiệt hại cho người thuê mình; gian lận thuế, giả mạo các hóa đơn hoặc các chi phiếu, chi tiêu lãng phí; cố ý gây thiệt hại cho tài sản tư hoặc công đều trái với luật luân lý và buộc phải bồi thường.” ( SGLGHC số 2409).
Cũng kể là trái nghịch điều răn thứ bảy mọi hành vi lừa đảo, làm hàng giả, lừa dối người tiêu thụ để kiếm nhiều tiền hoặc khai gian số giờ lao động để lãnh lương đầy đủ.
Cụ thể áp dụng như sau:
a. Ở Mỹ, chế độ trợ giúp welfare, food stamps, housing… được đặt ra nhằm trợ giúp cho những người có nhu cầu thiếu thốn thực sự về các quyền lợi nêu trên. Do đó, khai gian để hưởng những trợ cấp này, là làm thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của những người có nhu cầu thực sự đáng được hưởng. Như thế chắc chắn đây là tội gian lận, lấy của công, nghịch điều răn thứ bảy cấm lấy của người khác. Ngoài ra, những người giả ly dị để xin trợ cấp single parent, kể cả những người làm hôn thú giả để lấy tiền của những người muốn ra nước ngoài định cư đều mắc tội nghịch hai giới răn thứ bảy và thứ tám (cấm làm chứng dối, gian trá)
b. Cũng kể là lỗi điều răn thứ bảy, mọi hình thức cờ bạc, cá độ đưa đến ăn thua tiền bạc, làm thiệt hại cho kinh tế và hạnh phúc gia đình, vì những số tiền thu được ở đây đều trái với đức công bằng. Không thể dùng tiền cờ bạc để giúp xây nhà thờ, trường học , cô nhi viện… vì mục đích tốt không thể biện minh cho phương tiện xấu.
c. Sau hết, những việc làm như lỗi lời hứa, không thi hành những khế ước (contract) về kinh tế, thương mại, lao động… mà đôi bên đã ký kết, khiến gây thiệt hại công bằng cho người khác. Thêm vào đó, đặc biệt phải kể thêm những kẻ buôn bán người, dưới chiêu bài hôn nhân hay hứa cho công ăn việc làm có lương cao, nhưng thực chất chỉ là để buôn bán họ cho những nhu cầu bất chính của kẻ vô luân, vô đạo, đều là những việc làm bất chính lỗi điều răn thứ bảy vì đã xúc phạm nặng nề nhân phẩm và sức lao động của người khác để kiếm lợi cho riêng mình.
Tất cả những tội phạm điều răn thứ bảy đều phải được đền bù, hay hoàn trả theo công bằng giao hoán (commutative justice) đòi buộc nghiêm ngặt “phải bảo toàn mọi quyền tư hữu , phải trả các món nợ cũng như phải chu toàn các nghĩa vụ đã tự do cam kết với nhau. Thiếu đức công bằng giao hoán sẽ không thể có bất cứ hình thức công bằng nào khác.” (Sđd, số 2411)
Nói khác đi, không thể lấy hay làm thiệt hai tài sản, danh giá của ai rồi đi xưng tội là xong được. Dĩ nhiên phải xưng tội nhưngphải đền bù thiệt hại gây ra cho người khác cách cân xứng và trả lại cho người ta số tiền hay đồ vật đã lấy cách sai trái thì mới được tha tội. Cụ thể: công khai nói xấu, làm mất thanh danh của ai thì phải công khai xin lỗi người đó. Lấy trộm tiền, đồ vật, cưỡng chiếm đất đai, nhà cửa của ai thì phải trả lại cho người ta theo công bằng giao hoán nói trên. Nghĩa là không thể đọc năm ba kinh hay lần chuỗi 50 mà đền bù được những gì đã lấy của người khác. Các cha giải tội đều có bổn phận nói cho hối nhân biết luật công bằng đòi buộc phải trả lại cho người khác cách nào thuận tiện, kín đáo những gì mình đã lấy của người ta để được tha tội này như giáo lý của Giáo Hội dạy trên đây.
Tóm lại, hai giới răn thứ bảy và thứ mười cấm lấy hoặc ước muốn lấy bất của vật gì thuộc quyền sở hữu của người khác như đã giải thích trên đây. Người tín hữu Chúa Kitô cần thiết phải làm nhân chứng cho Chúa trong một thế giới quá gian tà, trộm cắp, và bất lương này bằng cách tuân giữ nghiêm ngặt hai giới răn trên để làm gương cho người khác và giúp ích cho phần rỗi của mình.
LM. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn