Theo Đài Phát Thanh Vatican, trong một cuộc phỏng vấn của Valentina Alazraki thuộc hệ thống truyền hình Televisa của Mễ Tây Cơ, nhân kỷ niệm hai năm làm giáo Hoàng, Đức Phanxicô đã đề cập tới nhiều vấn đề vẫn được nhiều người bình luận kể từ ngày ngài được bầu làm giáo hoàng.
Pope Francis arrives for an audience in St. Peter’s Square at the Vatican on March 11, 2015.
REUTERS/Stefano Rellandini
Cuộc phỏng vấn trên cũng diễn ra tại Nhà Thánh Marta, tại căn phòng nơi chín vị Hồng Y của ngài vừa mới hội họp và trong đó có bức ảnh lớn Đức Mẹ Guadalupe. Chỉ bức ảnh, ngài cho hay: Trinh Nữ Mễ Tây Cơ là “nguồn của hợp nhất văn hóa, dẫn ta tới sự thánh thiện giữa biết bao tủi hổ, bất công, bóc lột và chết chóc”.
Cuộc phỏng vấn bắt đầu với câu hỏi: tại sao một cuộc dừng chân tại Mễ Tây Cơ lại không được dự trù trong chuyến tông du Hoa Kỳ để chủ tọa Ngày Thế Giới Các Gia Đình tháng Chín này.
– Đức Giáo Hoàng trả lời rằng ngài có nghĩ tới việc vào Hoa Kỳ qua biên giới Mễ Tây Cơ. Nhưng đi tới Ciudad Juarez hay Morelia mà không viếng Đức Mẹ Guadalupe sẽ làm người Mễ Tây Cơ chưng hửng bối rối. Đức Giáo Hoàng cũng cho hay ngài không thể viếng Mễ Tây Cơ một cách qua loa được, bất kỳ cuộc viếng thăm nào tại nước này và dân chúng của họ cũng cần ít nhất một tuần lễ và ngài hứa sẽ thực hiện chuyến viếng thăm như thế càng sớm càng tốt.
Nhà báo hỏi ngài: là người con của di dân, ngài nghĩ gì về ý nghĩa của việc vào Hoa Kỳ qua ngả biên giới rất quan trọng đối với hiện tượng di dân kia.
– Đức Giáo Hoàng Phanxicô trả lời bằng cách nhấn mạnh rằng không phải chỉ có người Mễ Tây Cơ vượt biên giới mà thôi, nhưng những người từ khắp Trung Mỹ, như Guatemala chẳng hạn, cũng vượt biên giới vào Mễ Tây Cơ để tìm một tương lai tốt đẹp hơn. Ngài bảo: “ngày nay, di dân là kết quả của một bất ổn theo nguyên nghĩa của chữ này, tức kết quả của đói khát. Cùng một hiện tượng này cũng đang diễn ra tại Phi Châu, với rất nhiều người vượt Địa Trung Hải, những người xuất thân từ các nước đang gặp thời khó khăn vì đói kém, chiến tranh”. Đức Giáo Hoàng minh xác rằng “Ngày nay, di dân liên kết với nghèo đói và thiếu việc làm. Người ta đang bị vứt bỏ và buộc phải đi tìm việc làm tại nơi khác…
“ Ngay lúc này, vấn đề di dân khắp thế giới là một biến cố đau lòng. Vì có nhiều biên giới di dân đa dạng. Tôi hân hoan thấy Âu Châu đang duyệt lại chính sách di dân của mình. Ý là nước rất đại lượng và tôi muốn nói lên điều đó. Thị trưởng Lampudesa, tuy là một phụ nữ, đã tự đặt bà lên tuyến đầu, hy sinh biến thị đảo của mình từ một địa điểm du lịch thành một nơi tạm trú và tiếp đón di dân. Điều này có nghĩa: thị đảo sẽ kiếm được ít tiền hơn. Việc này quả là anh hùng. Nhưng hiện nay, tạ ơn Thiên Chúa, tôi thấy Âu Châu đang xét lại tình thế. Trở lại việc di dân qua biên giới Mễ Tây Cơ, khu vực này còn có nhiều vấn đề do việc buôn bán ma túy gây ra. Morelia và trọn khu vực hiện là một khu vực rất đau khổ, nơi các tổ chức buôn bán ma túy ít khi chịu tế nhị. Chúng thi hành việc giết người, chúng quả là sứ giả của tử thần cả để chiếm ma túy lẫn để thanh toán những ai chống lại ma túy, 43 sinh viên (ở Iguala) đòi cho có công lý và được tưởng nhớ, chứ không dám đòi trả thù. Và về phương diện này, tôi muốn thỏa mãn một tò mò: tôi vốn muốn phong Đức TGM Morelia làm Hồng Y, vì ngài dám dấn thân vào tuyến đầu, ngài là người thực sự đang ở vị trí rất nóng bỏng và là chứng nhân của đời sống Kitô Giáo, một linh mục vĩ đại. Nhưng ta sẽ nói sau về các Hồng Y”.
Nhà báo hỏi Đức Giáo Hoàng có phải sự kiện là người Châu Mỹ La Tinh đã khiến ngài cảm thấy có trách nhiệm hơn trong việc lên tiếng cho hàng triệu người buộc phải rời bỏ xứ sở của mình, vượt biên, vượt rào cản khắp trên thế giới hay không.
– Đức Giáo trả lời: đúng thế. Ngài muốn là tiếng nói của di dân và sự mẫn cảm của ngài với di dân không hề có tính ý thức hệ, mà là bộc phát và phát xuất từ lịch sử bản thân và cha mẹ di dân của ngài.
Nhà báo trở lại với trường hợp 43 sinh viên ở Iguala và hỏi Đức Giáo Hoàng xem người ta có thể phản ứng ra sao đối với tình thế khó khăn đó, dựa nguyên vào các giá trị của họ và các tài nguyên văn hóa của họ mà thôi.
– Đức Giáo Hoàng nhắc lại lịch sử lâu đời của các thánh và các vị tử đạo Mễ Tây Cơ và tầm quan trọng của việc dấn thân vào xã hội trên bình diện hướng về tha nhân ngõ hầu thắng vượt các cơn bệnh của đất nước. Ngài nói rằng “chúng ta không thể quay lưng như thể các vấn đề này không liên quan gì tới chúng ta và ta không thể đổ lỗi hết lên chính phủ hoặc một bộ phận nào, một nhóm hay một con người nào khác, vì đổ lỗi như thế là chuyện của con nít”.
Nhà báo hỏi xem Đức Giáo Hoàng nghĩ gì về việc trăm hoa đua nở các giáo phái khác nhau tại Mễ Tây Cơ và cách chung hơn, tại Châu Mỹ La Tinh và trách nhiệm của Giáo Hội trong việc để mất tín hữu.
– Đức Giáo Hoàng bắt đầu nói tới các phong trào tin lành và có phải đây là các giáo phái (sects) hay không. Điều các phong trào cung hiến là việc tiếp xúc bản thân, khả năng gần gũi dân chúng, đích thân chào hỏi và gặp gỡ người ta. Ngài nói rằng ở Châu Mỹ La Tinh, chủ nghĩa giáo sĩ trị nặng nề đã tạo ra khoảng cách lớn đối với người ta. Chủ nghĩa giáo sĩ trị ở Châu Mỹ La Tinh vốn là một trong những trở ngại lớn lao nhất chống lại việc lớn mạnh của hàng ngũ giáo dân. Hàng ngũ giáo dân này tại Châu Mỹ La Tinh chỉ lớn được nhờ lòng đạo đức bình dân, một lòng đạo đức mà theo Đức Phanxicô, đã mang lại cho tín hữu giáo dân co hội trở thành sáng tạo và tự do, qua việc thờ phượng, ruớc xách… Nhưng về phương diện tổ chức, hàng ngũ giáo dân đã không lớn mạnh đủ vì chủ nghĩa giáo sĩ trị đã tạo ra khoảng cách.
Trở lại với câu hỏi, Đức Giáo Hoàng phân biệt giữa phong trào tin lành trung thực và tốt lành và các phong trào bị coi là giáo phái. Thí dụ, có những đề xuất không có tính tôn giáo, bị chính các Kitô hữu tin lành bác bỏ. Có những giáo phái, một số phát xuất từ nền thần học thịnh vượng, hứa hẹn một cuộc sống tốt đẹp hơn, và dù bề ngoài xem ra được thúc đẩy bởi tinh thần tôn giáo lớn lao, nhưng rốt cuộc chỉ đòi hỏi tiền bạc.
Ngài cho rằng không nên tổng quát hóa, nhưng cần lượng giá từng trường hợp một.
Đức Giáo Hoàng cũng nói tới các bài giảng “gây thảm họa” như là một lý do nữa khiến người Công Giáo bỏ đạo. “Tôi không biết các bài giảng này có là đa số hay không, nhưng chúng không lọt vào tâm hồn người ta. Chúng là các bài học thần học, trừu tượng và dài dòng và đó là lý do tôi đã dành nhiều chỗ cho chúng trong Niềm Vui Tin Mừng. Một cách đặc trưng, người tin lành gần gũi người ta, họ nhắm tâm hồn người ta và chuẩn bị bài giảng thực tốt. Tôi nghĩ ta phải hồi tâm trong vấn đề này. Quan niệm của Thệ Phản về bài giảng là quan niệm mạnh mẽ hơn quan niệm Công Giáo. Nó gần như là một bí tích”. Để kết luận, Đức Giáo Hoàng nói rằng việc người Công Giáo bỏ đạo là do khoảng cách, chủ nghĩa giáo sĩ trị, các bài giảng buồn nản ngược với sự gần gũi, chịu làm việc, hội nhập, lời nồng cháy của Thiên Chúa. Và đây là hiện tượng không phải chỉ gây ảnh hưởng đối với Giáo Hội mà ngay cả một số cộng đồng tin lành nữa.
Đức Giáo Hoàng kết luận bằng cách trích dẫn sự quan trọng của công trình do Giáo Hội và các mục sư tin lành ở Buenos Aires đảm nhiệm chung.
Nhà báo yêu cầu Đức Giáo Hoàng nói tới việc điều gì đã diễn ra cách nay hai năm khi ngài được bầu vào Tòa Phêrô.
– Đức Giáo Hoàng trả lời rằng lúc ấy ngài tới Rôma, chỉ mang theo xách hành lý nhỏ, vì ngài không bao giờ tin là ngài sẽ được bầu làm giáo hoàng, và chắc chắn sẽ trở về để tái tục các bổn phận Tuần Thánh. Ngài chắc mẩm sẽ trở lại Buenos Aires kịp Chúa Nhật Lễ Lá, đến nỗi, ngài đã dọn sẵn bài giảng lễ, và đã tới Rôma với rất ít đồ dùng cần thiết vì nghĩ rằng đây là một mật nghị hội rất vắn vỏi. Ngài không có tên trên bất cứ danh sách các “giáo hoàng khả hữu” nào và ý tưởng đó cũng không lọt vào tâm trí ngài chút nào. Thực thế, tại London, các người đánh cá xếp tên ngài ở vị trí 42 và 46. Ấy thế nhưng để mua vui, một người quen vẫn đánh cá tên ngài và quả người này đúng.
Còn về việc đầu phiếu, Đức Giáo Hoàng nói rằng các nhà báo chỉ coi ngài như một cử tri vĩ đại, cùng lắm nêu tên một ai đó, nên họ chẳng chú ý gì đến ngài nhiều. Thế rồi vòng phiếu đầu, vào đêm thứ Ba, rồi vòng phiếu hai và vòng phiếu ba sáng thứ Tư trước bữa trưa. “Hiện tượng bỏ phiếu tại mật nghị hội quả đáng chú ý. Có những ứng cử viên rất sáng giá. Nhưng nhiều người không biết phải bỏ phiếu cho ai. Thành thử 6, 7, tên được chọn làm thành một thứ ‘kho dự trữ’, trong khi mọi người chờ xem để nhất định bỏ phiếu cho vị nào. Đó là cách người ta đầu phiếu trong một nhóm khá lớn. Tôi không là người nhận được số phiếu nhất định, chỉ là phiếu tạm thời thôi”.
Nhà báo hỏi có thật là trong mật nghị hội trước đó, ngài được 40 phiếu, thì Đức Giáo Hoàng trả lời ngay là không phải. Bà nhấn mạnh rằng nhiều người khác quả quyết như thế. Đức Giáo Hoàng trả lời: họ nói thế, không phải tôi. Nhà báo nói: một vị Hồng Y nói thế.
– “Vậy cứ để vị Hồng Y đó nói theo ý muốn. Tôi cũng có thể nói vì nay tôi có thẩm quyền để nói, nhưng cứ để vị Hồng Y ấy nói theo ý ngài. Thực ra, cho tới buổi chiều hôm đó, vẫn chưa có gì. Thế rồi, một điều gì đó diễn ra, tôi không biết là điều gì. Trong phòng, tôi thấy có những dầu hiệu lạ, nhưng… Họ hỏi tôi về sức khỏe của tôi… và những chuyện tương tự. Và khi chúng tôi họp lại vào buổi chiều, thì chiếc bánh ngọt đã nằm sẵn trong lò nướng. Hai vòng phiếu nữa và thế là xong. Quả là một ngạc nhiên đối với tôi. Ở vòng phiếu đầu của buổi chiều, tôi hiểu rõ: tình thế đã hết đường đảo ngược, bên cạnh tôi, và tôi cần nói rõ điều này vì tình bằng hữu của chúng tôi, là Đức Hồng Y Hummes, một nhân vật xuất chúng. Ở tuổi này, ngài vẫn là đại biểu của Hội Đồng Giám Mục vùng Amazon và rất hoạt động về mục vụ. Nửa vòng phiếu đầu của buổi chiều, vì có hai vòng phiếu, khi chúng tôi thấy điều đang diễn ra, ngài ở ngay phía sau tôi bảo tôi đừng lo sợ, đây là việc của Chúa Thánh Thần. Điều đó làm tôi buồn cười. Sau vòng phiếu thứ hai, khi đa số 2 phần 3 đã đạt, có tiếng vỗ tay, luôn luôn có tiếng vỗ tay tại các mật nghị hội vào thời điểm này, nên ngài ôm hôn tôi và bảo tôi đừng quên người nghèo và câu nói này bắt đầu quay mòng trong đầu óc tôi và đó là điều đã dẫn tôi tới việc chọn tên của mình. Trong vòng đầu phiếu, tôi đọc kinh mân côi, tôi có thói quen đọc ba chuỗi mân côi mỗi ngày, và tôi cảm thấy rất an bình, gần tới điểm bất cảm. Cùng một tâm trạng như khi mọi sự đã được giải quyết, và đối với tôi đây là một dấu chỉ Thiên Chúa muốn thế, hết sức bình an. Từ ngày hôm đó, tôi chưa bao giờ mất nó. Nó là một ‘điều gì ở bên trong’, giống một hồng ân. Tôi không biết điều gì xẩy ra sau đó. Họ bảo tôi đứng lên. Họ hỏi xem tôi có đồng ý hay không. Tôi thưa: có. Tôi không biết họ có bắt tôi phải thề điều gì không, tôi quên mất rồi. Tôi rất bình an. Tôi đi thay phẩm phục. Và tôi đi ra nhưng trước hết tới chào Đức Hồng Y Diaz, người đang ngồi trên chiếc xe lăn, sau đó, tôi chào hỏi các Hồng Y khác. Rồi tôi yêu cầu Đức HY đại diện Rôma và Đức HY Hummes tháp tùng tôi. Một điều không được dự liệu trong nghi lễ.
Rồi chúng tôi tới cầu nguyện tại Nhà Nguyện Pauline, trong khi Đức HY Tauran công bố tên tôi. Sau khi tôi ra ngoài, tôi không biết phải nói gì. Và chắc bà chứng kiến mọi chuyện sau đó. Tôi cảm thấy sâu xa rằng một thừa tác viên cần được Thiên Chúa chúc phúc, nhưng cả sự chúc phúc của dân Người nữa. Tôi không dám xin dân chúc lành cho tôi. Tôi chỉ nói: anh chị em hãy cầu xin Chúa chúc lành cho tôi qua anh chị em. Nhưng điều đó phát ra một cách bộc phát, cả lời cầu nguyện của tôi cho Đức Bênêđíctô nữa”.
Ngài có thích làm giáo hoàng không?
– “Tôi không phản đối!”
Ngài thích gì và không thích gì về việc làm giáo hoàng? Hay ngài thích mọi sự?
– “Tôi chỉ thích một điều là một ngày nào đó được ra ngoài, không bị ai nhận ra, để làm một chầu tuyết da (pizza)”.
Điều ấy hẳn tuyệt vời.
– Không, tôi chỉ nói thí dụ thôi. Ở Buenos Aires, tôi là người lang thang. Tôi đi hết giáo xứ này tới giáo xứ nọ và thói quen này chắc chắn đã thay đổi… nhưng thay đổi quả là chuyện khó khăn. Nhưng bà sẽ quen đi. Bà phải tìm cách để mà thích ứng: bằng điện thoại hay cách nào khác…”
Nhà báo hỏi Đức Giáo Hoàng về sự kiện ngài thường nói triều giáo hoàng của ngài sẽ vắn vỏi và hay nhắc đến khả thể chết trong tuổi già…
– “Tôi có cảm giác triều giáo hoàng của tôi sẽ vắn vỏi: 4 hoặc 5 năm; tôi không biết, thậm chí 2 hoặc 3 năm. Hai năm đã qua rồi. Đây là một cảm giác đôi chút mơ hồ. Có lẽ như tâm lý của anh chàng đánh bạc tự thuyết phục là mình sẽ thua, để khỏi bị thất vọng khi thua thật, nhưng nếu thắng thì sẽ rất vui. Tôi không rõ. Nhưng tôi cảm thấy Chúa đặt để tôi ở đây trong một thời gian ngắn, không hơn… Nhưng nó là một cảm giác. Tôi luôn để khả thể (cho các chương trình) rộng mở”.
Đức Thánh Cha cũng nói với chúng con rằng ngài sẽ theo gương Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô… Việc này thay đổi đôi chút ‘ý niệm ngôi vị giáo hoàng’, vì chúng con đã quen với việc giáo hoàng là một định chế do Chúa Thánh Thần thiết lập và cho tới chết.
– “Trước mật nghị hội, lúc còn họp toàn thể, có một số vị Hồng Y thăm dò vấn đề rất đáng lưu ý, rất phong phú về thần học này. Tôi nghĩ điều Đức GH Bênêđíctô làm là mở ra một cánh cửa. Sáu mươi năm trước đây, chưa hề có các giám mục hưu trí. Nay chúng ta có 1,400 vị. Người ta đã nẩy ra ý niệm này: sau 75 tuổi hay gần đến tuổi đó, một người không thể gánh gánh nặng của một Giáo Hội đặc thù nữa. Nói chung, tôi nghĩ điều Đức Bênêđíctô đã can đảm thực hiện là mở cánh cửa cho các vị giáo hoàng hưu trí. Không nên coi ngài như một ngoại lệ, mà là một định chế. Có thể ngài là vị duy nhất trong một thời gian dài, cũng có thể ngài không phải là vị duy nhất. Nhưng cánh cửa định chế đã được mở ra. Ngày nay, Giáo Hoàng Hưu Trí không phải là việc hiếm hoi nữa vì cánh cửa để ngài hiện hữu như một nhân vật đã được mở ra”.
Đức Thánh Cha có tưởng nghĩ tới tình thế trong đó Đức Giáo Hoàng sẽ hồi hưu lúc 80 tuổi như các vị giám mục hay không?
– “Tôi có thể tưởng nghĩ việc đó. Tuy nhiên, tôi không thích ý tưởng hạn chế về tuổi. Vì tôi tin rằng ngôi vị giáo hoàng là một thứ trường hợp cá biệt cuối cùng. Nó là một ơn phúc đặc biệt. Đối với một số nhà thần học, ngôi vị giáo hoàng là một bí tích. Người Đức rất sáng tạo trong các vấn đề này. Tôi không nghĩ thế, nhưng tôi muốn nói rằng nó là một điều đặc biệt. Nói rằng một người nào đó chỉ đảm nhiệm cho tới lúc 80 tuổi sẽ tạo ra một cảm giác cho rằng triều giáo hoàng sắp sửa chấm dứt và điều này không phải là một điều tốt. Có thể đoán trước. Tôi sẽ không ủng hộ ý tưởng đặt giới hạn tuổi lên ngôi vị giáo hoàng, nhưng tôi có cùng ý tưởng về điều Đức Bênêđíctô thực hiện. Tôi được gặp ngài mới đây trong cơ mật viện. Ngài hạnh phúc, hài lòng. Được mọi người kính nể. Tôi tới thăm ngài. Năng nói chuyện với ngài trên điện thoại. Như tôi từng nói, giống như có người ông khôn ngoan trong nhà. Ta có thể đến vấn kế. Trung thành cho tới chết. Tôi không biết bà có nhớ hôm chúng tôi chia tay nhau ngày 28 tháng Hai ở Phòng Clementine, ngài nói, người kế vị tôi đang ở giữa hiền huynh, tôi xin hứa trung tín, trung thành và vâng lời. Và ngài đã làm những điều đó. Đúng là Con Người của Thiên Chúa”.
Nhà báo hỏi Đức Giáo Hoàng về cuộc cải cách Giáo Triều và liệu đây có phải chỉ là một diễn trình hoàn toàn kỹ thuật hay đúng hơn là một vấn đề thuộc não trạng, thuộc tâm hồn…
– Đức Giáo Hoàng trả lời rằng mọi thay đổi đều bắt đầu trong tâm hồn, nhưng cũng là một cuộc thay đổi lối sống. Còn về Giáo Triều, ngài cho hay: “tôi nghĩ đây là triều đình cuối cùng còn sót lại ở Âu Châu. Các triều đình khác đã được dân chủ hóa, thậm chí cả triều đình cổ điển nhất. Có một điều gì đó trong triều của giáo hoàng vẫn còn phần nào duy trì truyền thống lai giống. Nhưng tôi không nói điều này theo nghĩa xúc phạm đâu, đây chỉ là vấn đề văn hóa. Nó cần được thay đổi, có thể duy trì dáng vẻ một triều đình, trong khi phải là một nhóm làm việc để phục vụ Giáo Hội. Phục vụ các vị giám mục”. Nhắc tới các vấn đề từng tạo ra các tranh luận về luân lý và đạo đức tại Vatican (Vatileak chẳng hạn…), ngài lý luận rằng cần có sự hồi tâm trên bình diện bản thân và Đức Giáo Hoàng phải khởi sự thay đổi tình thế.
Về chủ đề của Thượng Hội Đồng về gia đình, nhà báo hỏi Đức Giáo Hoàng xem ngài có cổ vũ các thay đổi trong lãnh vực cho phép người ly dị tái hôn được rước lễ, và về đồng tính luyến ái.
– Theo Đức Giáo Hoàng, hiện có nhiều mong đợi lớn lao. Còn về chính Thượng Hội Đồng và việc chọn chủ đề, ngài lược lại các bước dẫn tới việc xác định ra chủ đề này, chủ yếu vì các khó khăn nghiêm trọng mà gia đình hiện đang trải qua trong xã hội, nhất là giữa các thế hệ trẻ. Suy nghĩ về cuộc khủng hoảng gia đình, Đức Phanxicô cho hay: ngài tin rằng Chúa muốn chúng ta giải quyết một số vấn đề chuyên biệt: việc chuẩn bị hôn nhân, hỗ trợ các cặp sống chung, đồng hành với các cặp mới cưới, hỗ trợ những người thất bại trong hôn nhân và tái hôn. Sự quan trọng của việc hiểu bí tích hôn nhân để ngăn cản nhiều cuộc hôn nhân khỏi trở thành một biến cố xã hội hơn là biến cố đức tin.
Về vấn đề lạm dụng trẻ em và chính sách tuyệt đối không khoan dung trong hiện tượng này.
– Đức Giáo Hoàng trả lời rằng Ủy Ban (Bảo Vệ Trẻ Vị Thành Niên, lập năm 2013) không phải lo việc lạm dụng mà lo việc bảo vệ trẻ vị thành niên. Nghĩa là, ngăn ngừa. Vấn đề lạm dụng là vấn đề nghiêm trọng, mà đa số đều xẩy ra trong khung cảnh gia đình hay liên hệ tới những người chúng biết. Chỉ cần một linh mục phạm tội lạm dụng này cũng đủ phải vận động mọi cơ cấu của Giáo Hội để đối diện với vấn đề rồi. Thực vậy, nhiệm vụ của một linh mục là dưỡng nuôi bé trai và bé gái trong sự thánh thiện và trong cuộc gặp gỡ của các em với Chúa Giêsu, vậy mà những người lạm dụng lại đi phá hủy cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu này. Đức Phanxicô nói tới tầm quan trọng của việc lắng nghe các nạn nhân và nói tới kinh nghiệm của ngài từng gặp gỡ 6 người sống thoát việc lạm dụng tại Vatican. Ngài cho biết sự phá hủy bên trong mà họ cảm nhận quả là tan nát và chỉ cần một linh mục phạm tội cũng đủ làm tất cả chúng ta xấu hổ và cương quyết làm tất cả những gì có thể làm được. Đức Phanxicô cũng thừa nhận lòng can đảm của Đức Bênêđíctô XVI trong việc công khai tuyên bố đó là một tội ác khi phá hủy một tạo vật ngây thơ bằng những hành vi như thế và Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong việc khởi sự công việc tường trình các tội ác này.
Vũ Văn An