Diễn văn của ĐTC với các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và Giáo lý viên Hy Lạp

Trong bài nói chuyện với các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ, Chủng sinh, Giáo lý viên của Hy Lạp, Đức Thánh Cha nhắn nhủ họ về hai thái độ: tin tưởng vững vàng và đón nhận.

 Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô
với các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ, Chủng sinh, Giáo lý viên của Hy Lạp

Nhà thờ Chính tòa thánh Diônisiô
Thứ Bảy 04/12/2021

Quý hiền huynh Giám mục,

Quý Linh mục, Tu sĩ nam nữ, Chủng sinh,

Quý anh chị em thân mến, kaliméra sas! (chào anh chị em)

Tôi chân thành cảm ơn anh chị em về sự tiếp đón và những lời chào mừng của Đức cha Rossolatos dành cho tôi. Và tôi cảm ơn sơ (Maria) về chứng từ của sơ: điều quan trọng là các tu sĩ nam nữ phục vụ với tinh thần này, với một tình yêu nồng nhiệt trở thành quà tặng cho cộng đoàn mà họ được gửi đến. Xin cám ơn! Cũng xin cám ơn ông Rokos về chứng tá đức tin tuyệt vời trong gia đình, trong đời sống hàng ngày, cùng với các con cái, những người mà, như rất nhiều người trẻ, một lúc nào đó bắt đầu thắc mắc, tự hỏi, và hơi phê bình chỉ trích một số điều. Nhưng điều đó cũng không sao, bởi vì nó giúp chúng ta, như là một Giáo hội, suy tư và thay đổi.

Tôi rất vui được gặp anh chị em ở một vùng đất, nơi là quà tặng, là di sản của nhân loại, trên đó, các nền tảng của phương Tây đã được xây dựng. Tất cả chúng ta đều là những người con và những người mắc nợ đất nước các bạn: nếu không có thơ ca, văn học, triết học và nghệ thuật được phát triển ở đây, chúng ta sẽ không thể biết nhiều khía cạnh của cuộc sống của con người, cũng như không thể trả lời nhiều câu hỏi nội tâm về cuộc sống, về tình yêu, về nỗi đau và sự chết.

Vào buổi bình minh của Kitô giáo, di sản phong phú này đã làm nảy sinh một cuộc hội nhập văn hóa của đức tin, được thực hiện, như trong một “phòng thí nghiệm”, nhờ sự khôn ngoan của nhiều Giáo phụ trong đức tin, những người bằng lối sống thánh thiện và các tác phẩm của họ vẫn là hải đăng cho các tín hữu ở mọi thời đại. Nhưng nếu chúng ta tự hỏi: ai là người đã khởi đầu cuộc gặp gỡ giữa Kitô giáo sơ khai và nền văn hóa Hy Lạp, thì ngay lập tức chúng ta nghĩ đến thánh Tông đồ Phaolô. Chính ngài là người tổng hợp hai thế giới đó. Ngài đã làm điều đó ngay tại đây, như sách Công vụ tông đồ kể lại: Ngài đến Athens, bắt đầu rao giảng tại các quảng trường thành phố và một số triết gia đã đưa ngài đến Hội đồng Arêôpagô (Cv 17,16-34), đó là hội đồng các trưởng lão và các học giả, những người có trách nhiệm đánh giá các vấn đề được công chúng quan tâm. Chúng ta hãy dừng lại và suy tư về sự việc này. Như là Giáo hội, chúng ta có thể được hướng dẫn trong cuộc hành trình của chúng ta nhờ hai thái độ của thánh Tông đồ; những thái độ này có thể cho thấy chúng hữu ích cho nỗ lực hiện tại của chúng ta trong việc hội nhập văn hóa đức tin.

Tin tưởng chắc chắn

Thái độ đầu tiên là tin tưởng chắc chắn. Khi thánh Phaolô giảng, một số triết gia bắt đầu tự hỏi tên “lừa gạt” này đang muốn nói gì (câu 18). Họ gọi ngài là kẻ phỉnh gạt: một kẻ bịa chuyện, lợi dụng lòng tin của người nghe. Vì vậy, họ đã đưa ngài đến Hội đồng Arêôpagô. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng họ chỉ đơn giản là đưa ngài đến một nơi để giảng dạy. Ngược lại, họ đưa ngài đến đó để tra hỏi: “Chúng tôi có thể biết thứ đạo lý mới ông dạy là gì không? Thực là ông có đem đến cho chúng tôi một số điều lạ tai; vậy chúng tôi muốn biết những điều đó nghĩa là gì?” (các câu 19-20). Tóm lại, thánh Phaolô bị kiểm tra.

Khía cạnh này của sứ mạng của thánh Phaolô tại Hy Lạp có thể dạy chúng ta một bài học quan trọng ngày nay. Thánh Tông Đồ bị chèn ép dữ dội. Trước đó không lâu, tại Thêsalônica, ngài đã bị ngăn cản không cho rao giảng; vì tình trạng hỗn loạn do các đối thủ gây nên, ngài phải bỏ trốn khỏi thành phố vào ban đêm. Giờ đây, khi đến Athens, ngài đã bị xem là kẻ phỉnh gạt và đưa đến Hội đồng Arêôpagô như một vị khách không mời mà đến. Đây không phải là khoảnh khắc chiến thắng đối với thánh Phaolô. Người đang thực hiện sứ vụ trong một hoàn cảnh khó khăn. Có lẽ, nhiều khi trên hành trình, chúng ta cũng cảm thấy mệt mỏi và thậm chí thất vọng vì là một cộng đồng nhỏ bé, một Giáo hội với ít nguồn lực hoạt động trong một môi trường không phải lúc nào cũng thuận lợi. Hãy nghĩ về thánh Phaolô ở Athens. Ngài đơn độc, thuộc nhóm thiểu số, không được chào đón và có rất ít cơ hội thành công. Nhưng ngài không để mình bị sự nản lòng khuất phục. Ngài đã không từ bỏ sứ vụ của mình. Ngài cũng không chiều theo cám dỗ muốn phàn nàn. Đó là thái độ của một Tông đồ chân chính: tin tưởng tiến về phía trước, yêu thích sự bất trắc của những tình huống bất ngờ hơn là sự tự mãn đến từ sức mạnh của thói quen. Thánh Phaolô đã có dũng khí đó. Điều này xuất phát từ đâu? Từ sự tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa. Đó là lòng can đảm phát sinh từ sự tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng yêu thích hoàn thành những điều vĩ đại thông qua sự thấp hèn của chúng ta.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy có cùng niềm tin tưởng vững vàng ấy, bởi vì là một Giáo hội nhỏ bé khiến chúng ta trở thành dấu chỉ hùng hồn của Tin Mừng, về Thiên Chúa được Chúa Giêsu rao truyền, Đấng đã chọn những người nghèo hèn, Đấng thay đổi lịch sử bằng những việc làm đơn sơ tầm thường. Là Giáo hội, chúng ta không được kêu gọi để có tinh thần chinh phục và chiến thắng, những con số ấn tượng hay sự vĩ đại của thế gian. Tất cả điều này thật nguy hiểm. Nó có thể cám dỗ chúng ta tìm chủ nghĩa chiến thắng. Chúng ta được yêu cầu lấy cảm hứng từ hạt cải, loại hạt có vẻ không đáng kể, nhưng phát triển từ từ và âm thầm. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nó là hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên nó lại là thứ lớn nhất, và trở thành cây to” (Mt 13,32). Chúng ta được yêu cầu trở nên men, một cách kiên nhẫn và âm thầm, làm khối bột dậy men, ẩn mình trong bột thế gian, nhờ sự hoạt động không ngừng của Chúa Thánh Thần (Mt 13,33). Mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa nằm trong những điều nhỏ bé, thường âm thầm và không ai nhìn thấy. Tông đồ Phaolô, tên ngài có nghĩa là “bé nhỏ”, đã sống trong sự tin cậy vững chắc, vì ngài đã ghi nhớ những lời Phúc âm đó trong lòng và biến chúng thành bài học cho các tín hữu thành Côrintô: “Sự yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn sự mạnh mẽ của loài người”; “Thiên Chúa đã chọn những gì yếu đuối trên thế gian để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1Cr 1:25, 27).

Vì vậy, anh chị em thân mến, tôi xin nói với anh chị em điều này: hãy xem sự nhỏ bé của mình là một phúc lành và sẵn sàng chấp nhận nó. Nó giúp anh chị em tín thác vào Chúa và chỉ một mình Chúa. Là một thiểu số – và đừng quên rằng Giáo hội trên toàn thế giới là một thiểu số – không có nghĩa là tầm thường, mà là tiến gần hơn đến con đường được Chúa yêu thích, đó là con đường của sự nhỏ bé: của “kenosis” (mầu nhiệm tự huỷ), tự hạ, hiền lành. Chúa Giêsu đã xuống thế, thậm chí ẩn mình trong sự yếu đuối của con người chúng ta và những vết thương trên thân xác chúng ta. Người đã cứu độ chúng ta bằng cách phục vụ chúng ta. Như thánh Phaolô đã nói với chúng ta, “Người đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2,7). Chúng ta có thể thường xuyên bị ám ảnh bởi những hình thức và dáng vẻ bên ngoài, nhưng “Nước Thiên Chúa không đến với những dấu chỉ có thể quan sát được” (Lc 17,20). Chúng ta hãy giúp nhau củng cố lòng tin cậy vào hoạt động của Thiên Chúa, và đừng đánh mất lòng nhiệt thành phục vụ. Hãy vững lòng, kiên trì!

Chấp nhận

Bây giờ tôi muốn nêu bật thái độ thứ hai được thánh Phaolô thể hiện trước Hội đồng Arêôpagô; đó là sự chấp nhận, một tính cách nội tâm cần thiết cho việc truyền giảng Tin Mừng. Một thái độ chấp nhận không cố gắng chiếm chỗ và cuộc sống của người khác, nhưng để gieo tin vui vào mảnh đất cuộc sống của họ; nó học cách nhận biết và đánh giá cao những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo vào lòng họ trước khi chúng ta đến. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng Thiên Chúa gieo hạt trước chúng ta. Truyền giáo không phải là đổ đầy một thùng rỗng; nhưng chính là cho thấy rõ những gì Thiên Chúa đã bắt đầu hoàn thành. Và đây là phương pháp sư phạm nổi bật mà thánh Tông đồ đã áp dụng với người Athens. Ngài đã không nói với họ: “Tất cả điều các bạn biết là sai lầm”, hoặc “Bây giờ tôi sẽ dạy bạn sự thật”. Ngược lại, ngài bắt đầu bằng việc chấp nhận tinh thần tôn giáo của họ: “Thưa quý vị người Athens, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ‘Kính thần vô danh’” (Cv 17,22-23). Thánh Tông đồ tôn trọng những người nghe mình và hoan nghênh lòng sùng đạo của họ. Mặc dù các đường phố ở Athens đầy những thần tượng, điều đã khiến ngài “vô cùng đau khổ” (câu 16), thánh Phaolô nhìn nhận lòng khao khát đối với Thiên Chúa tiềm ẩn trong tâm hồn của những người đó, và muốn nhẹ nhàng chia sẻ với họ món quà đức tin tuyệt vời. Ngài không áp đặt; ngài đề nghị. “Phong cách” của ngài không dựa trên việc chiêu dụ tín đồ, mà dựa trên sự hiền lành của Chúa Giêsu. Điều này có thể có là nhờ thánh Phaolô có cái nhìn thiêng liêng về thực tế. Ngài tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong lòng con người, ở trên và vượt qua những nhãn hiệu tôn giáo. Chúng ta đã nghe thấy điều này trong chứng từ của Rokos. Vào một lúc nào đó, các trẻ em rời xa việc thực hành tôn giáo, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục thực hiện công việc của mình, và do đó các em tin vào sự hiệp nhất, vào tình huynh đệ với những người khác. Chúa Thánh Thần luôn làm nhiều hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy từ bên ngoài. Chúng ta đừng quên điều này. Trong mọi thời đại, thái độ của người tông đồ bắt đầu bằng việc chấp nhận người khác. Vì “ân sủng giả định một nền văn hóa, và ơn Chúa được thể hiện trong nền văn hóa của những người lãnh nhận nó” (Evangelii Gaudium, 115).

Khi suy tư về chuyến đi của thánh Phaolô đến Hội đồng Arêôpagô, Đức Biển Đức XVI lưu ý rằng: chúng ta phải chú trọng đến những người theo thuyết bất khả tri hoặc vô thần, nhưng phải cẩn thận bởi vì “khi chúng ta nói về một cuộc truyền giáo mới, có thể những người này bị hoảng sợ. Họ không muốn coi mình là mục tiêu của việc truyền giáo, cũng như không muốn từ bỏ quyền tự do tư tưởng và ý chí của mình” (Diễn văn trước Giáo triều Roma, ngày 21/12/2009). Ngày nay, chúng ta cũng được yêu cầu trau dồi một thái độ chào đón, một phong cách hiếu khách, một tấm lòng mong muốn tạo ra sự hiệp thông giữa những khác biệt về con người, văn hóa và tôn giáo. Thách đố là phát triển niềm đam mê cho toàn thể, điều này có thể dẫn chúng ta – những người Công giáo, Chính Thống giáo, anh chị em theo các tín ngưỡng khác – đến việc lắng nghe nhau, mơ ước và làm việc cùng nhau, nuôi dưỡng “huyền nhiệm” của tình huynh đệ (x. Evangelii Gaudium, 87). Những nỗi đau trong quá khứ vẫn còn trên con đường hướng tới một cuộc đối thoại đáng hoan nghênh như vậy, nhưng chúng ta hãy can đảm đón nhận thử thách của ngày hôm nay!

Anh chị em thân mến, tại đây trên đất Hy Lạp, thánh Phaolô đã thể hiện sự tin cậy thanh thản của mình vào Thiên Chúa và điều này khiến ngài cởi mở và chấp nhận những người trong Hội đồng Arêôpagô đang nghi ngờ ngài. Với tinh thần này, thánh Phaolô đã loan báo một Thiên Chúa vô danh cho những người nghe ngài. Do đó, ngài đã có thể trình bày khuôn mặt của một Thiên Chúa, Đấng qua Chúa Giêsu Kitô đã gieo vào lòng thế giới hạt giống của sự Phục Sinh, quyền phổ quát về hy vọng. Khi thánh Phaolô công bố tin vui này, hầu hết họ đều cười nhạo ngài và bỏ đi. Tuy nhiên, “có mấy người đã theo ngài và tin Chúa, trong số đó có ông Diônisiô, thành viên Hội đồng Arêôpagô và một phụ nữ tên là Đamari cùng những người khác nữa” (Cv 17,34). Đa số bỏ đi; một số nhỏ còn lại theo thánh Phaolô, bao gồm cả ông Diônisiô, người mà Nhà thờ này mang tên. Một số nhỏ sót lại, nhưng đó là cách Thiên Chúa dệt nên những sợi dây của lịch sử, từ những ngày đó cho đến thời đại của chúng ta. Tôi chân thành cầu chúc anh chị em tiếp tục công việc trong “phòng thí nghiệm” lịch sử của đức tin của anh chị em, và làm điều đó với sự giúp đỡ của hai yếu tố này, tin tưởng và chấp nhận cách chắc chắn, để nếm hưởng Phúc Âm như một kinh nghiệm của niềm vui và tình huynh đệ. Tôi gần gũi anh chị em trong tình cảm và lời cầu nguyện. Và tôi xin anh chị em, xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. O Theós na sas avloghi!  [Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em!].


Nguồn: vaticannews.va/vi/