Hỏi: xin cha giải đáp giúp mấy thắc mắc sau đây :
- Ở xứ kia bên Việt Nam, Cha xứ cứ hăm ra vạ tuyệt thông cho ai đi dự tiệc cưới của đôi hôn phối nào không kết hôn hợp pháp trong Giáo Hội. Cha xứ có quyền này không ?
- Có thể xưng mãi một tội hay không ?
- Ai được phép hưởng ân xá của Giáo Hội ?
Trả lời:
1-Vạ Tuyệt Thông ( anthema=excommunication) là hình phạt nặng nhất mà Giáo Hội bất đắc dĩ phải áp dụng trong những trường hợp gia trọng như bội giáo ( apostasy) ly giáo( schism) và lạc giáo ( heresy) ( can.751) hành hung Đức Thánh Cha ( can. 370&1) giết người hay giết thai nhi , tiết lộ bí mật trong tòa giải tôi ( can. 1388& 1) v.v
Vạ tuyệt thông có hai loại là tiền kết ( latae sententiae) và hậu kết ( ferendae sententiae):
A- Vạ tiền kết là vạ đương nhiên hay tự động ( automatically incurred) có hiệu lực khi vi phạm điều đã cấm, và chỉ dành cho Tòa Thánh quyền tháo gỡ mà thôi. Những trường hợp bị vạ tuyệt thông tiền kết gồm có những lỗi phạm sau đây:
1 -Hành hung đức Thánh Cha ( can. 370& 1)
2 – Không có phép Đức Thánh Cha mà dám truyền chức Giám mục cho ai. Cả Người truyền chức và người chịu chức đều đương nhiên mắc vạ. ( can.1382)
3 -Vi phạm ấn tòa giải tội.( Seal of confessions) tức linh mục tiết lộ cho ai tội đã nghe của hối nhân trong tòa giải tội ( can.1388& 1)
4- Ném bỏ Mình Thánh hay đem về nhà với mục đích phạm thánh ( Sacrilege) ( can. 1367)
5- Người bội giáo =apostate là người hoàn toàn chối bỏ đức tin Kitô Giáo
Tà giáo hay rối Đạo= Heretic= là người chối bỏ một số tín điều hay giáo lý của của Giáo Hội.
Ly giáo ( schimatic) là người công khải bỏ Đạo để gia nhập đạo hay giáo phái khác. Tất cả 3 tội này đều bị vạ tuyệt thông tiền kết. ( can. 751)
6- Phá thai hay giúp phá thai có kết quả ( can. 1398)
Như đã nói ở trên, vạ tiền kết là vạ đương nhiên hay tự động ( automatically incurred) có hiệu lực cho ai lỗi phạm điều đã cấm, và chỉ Tòa Thánh mới có quyền tháo gỡ hay tha vạ này mà thôi.Nhưng riêng trường hợp phá thai và phụ giúp phá thai, thì Đức Thánh Cha Phanxicô đã cho phép các linh mục trên toàn thế giới từ nay được tha tội này.
B- Vạ tuyệt thông hậu kết ( ferendae sententiae)
Vạ này được áp dụng cho những người ngoan cố không chịu sửa lỗi nặng mặc dù đã được thẩm quyền Giáo Hội khuyến cáo vô hiệu quả. ( can 1347 &1) .Cụ thể, cách nay trên 20 năm , nhân vụ “ lôn xộn “ ở San Jose, California, Đức Giám mục địa phương đã ngăm đe ra vạ tuyệt thông cho một vài người chủ chốt nếu họ không chấm dứt “ tranh đấu” và vâng phục giáo quyền địa phương.
Như thế, chỉ có Giám mục mới có quyền ra vạ tuyệt thông hậu kết cho ai không vâng phục để sửa lỗi đã phạm dù đã được khuyến cáo ít là một lần.
Ngoài ra, không linh mục nào, dù là chánh hay phó xứ, được phép đe dọa ra vạ tuyệt thông cho ai. Sở dĩ phải nói điều này là vì theo câu hỏi trên, có linh mục chánh xứ đã dọa vạ tuyệt thông cho những ai đi dự tiệc cưới của đôi hôn phối chưa kết hôn trong Giáo Hội. Chưa kết hôn trong Giáo Hội mà ăn ở với nhau như vợ chồng thì tạm thời không được lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hòa giải chứ không thể bị “ trục xuất ra khỏi hiệp thông với Giáo Hội” với vạ tuyệt thông tiền hay hậu kết được, vì không có giáo luật nào cho phép phạt vạ như vậy.
Lại càng vô lý hôn nữa là đe dọa vạ tuyệt thông cho ai đi dự tiệc cưới của họ. Đây là một lạm dụng đáng tiếc về hình phạt vạ tuyệt thông cần được sửa chữa trong Giáo Hội địa phương. Cũng cần nói thêm là ngày nay Giáo Hội đã cho phép hôn nhân hỗn hợp ( mixed marriage ) nghĩa là một người Công Giáo có thể được phép kết hôn với người theo đạo khác, nhưng phải xin phép chuẩn ( dispensation) ở Tòa Giám mục . Khi đã có phép chuẩn cho phía có Đao Công Giáo rồi thì hôn phối được phép cử hành ở nhà thờ như mọi đôi hôn phối khác. Có điều khác biệt là chỉ người có Đạo mới được rước Mình Thánh trong lễ cưới mà thôi.Hôn nhân này là hợp pháp trong Giáo Hội nên không ai được phép chỉ trích hay đe dọa vạ tuyệt thông” cho người đi dự tiệc cưới của họ.
Tóm lại, khi nói đến vạ tuyệt thông, tiền hay hậu kết, có nghĩa là hình phạt tạm thời không được hiệp thông với Giáo Hội trong mọi lãnh vực thực hành đức tin như cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích bao lâu chưa được tha vạ.Như vậy, phải hết sức thận trọng khi nói đến vấn đề này để không làm hoang mang cho giáo dân về kỷ luật và hình phạt bất đắc dĩ này của Giáo Hội
2- Có thể xưng mãi một tội hay không ?
Là con người , ai cũng yếu đuối trong bản tính. Thêm vào đó là những cám dỗ của ma quỉ và gương xấu, dịp tội đầy rẫy trong môi trường xã hội , tức hoàn cảnh sống của mỗi người, nên người ta dễ sa phạm tội nặng hay nhẹ.
Chính vì biết rõ như vậy, nên Chúa Kitô – trước khi về Trời- đã ban bí tích hòa giải cho các Tông Đồ để các ngài và những người kế vị thay mặt Chúa tha tội cho mọi người trong Giáo Hội như Chúa đã truyền cho các ngài:
“anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha
Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị căm giữ” ( Ga 20 : 23)
Chúa đầy lòng thương xót và hay tha thứ. Đúng, nhưng con người không được lợi dụng lòng thương xót tha thứ này để cứ phạm tội rồi đi xưng tội. Xưng tội vì lỡ sa ngã do bản tính yếu đuối, vì ma quỷ và thế gian cám dỗ. Nhưng cũng phải cố gắng hết sức về phần mình và nương nhờ vào ơn Chúa để tránh phạm tội hầu được sống trong tình thương và ơn nghĩa với Chúa. Đó là điều Chúa mong muốn nơi mỗi người tín hữu chúng ta. Sở dĩ nói Chúa mong muốn chứ không ép buộc , vì con người còn có ý muốn tự do (free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người xử dụng để hoặc tự do chọn Chúa và xa tránh sự dữ, sự tội, hay khước từ Chúa để tự do sống theo ý muốn của mình và làm những điều trái nghịch với tình thương, công bình và thánh thiện của Chúa.
Nếu chọn Chúa thì phải quyết tâm sống theo đường lối của Chúa là con đường dẫn đưa đến hạnh phúc Nước Trời. Đó là con đường cứu rỗi mà ít người muốn đi qua như Chúa Giê su đã trả lời cho một người hỏi Chúa Giêsu xem có phải rất ít người được cứu rỗi hay không, Chúa đáp :
” Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không được.” ( Lc 13: 24)
Cửa hẹp mà Chúa muốn nói ở đây là kỷ luật mà chúng ta phải khép mình vào để không chạy theo những quyến rũ của tiền bạc, danh lợi chóng qua ở đời này cùng những thú vui vô luân vô đạo là con đường rộng thênh thang mà nhiều người thích đi trên đó, nhưng không biết là sẽ đi vào cõi chết đời đời. Cụ thể, đó là những kẻ tôn thờ chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa vật chất và khoái lạc ( hedonism) khiến họ đang đi tìm tiền của cách bất chính để làm giầu, như buôn bán gian lận, mở sòng bài bạc, nhà điếm, sản xuất sách báo và phim ảnh dâm ô đồi trụy, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm ( child prostitution) rất khốn nạn và tội lỗi ở khắp nơi trên thế giới tục hóa ngày nay.
Nếu người có niềm tin Thiên Chúa mà cũng đi vào con đường đó , nghĩa là cũng ăn gian nói dối, cờ bạc đỏ đen, thay vợ, đổi chồng, dâm ô trác táng, bất công với người khác và lãnh cảm trước sự nghèo đói của anh chị em đồng loại, thì dù có mang danh là người Công giáo, vẫn đi lễ ngày Chúa nhật, vẫn kêu tên Chúa Kitô và hát Alleluia, Alleluia như anh em Tin Lành, thì cũng vô ích mà thôi, căn cứ vào chính lời Chúa Giêsu đã nói rõ với các môn đệ Người như sau:
“ Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lậy Chúa !, lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” ( Mt 7 : 21)
Thi hành ý muốn của Cha trên trời có nghĩa là xa tránh tội lỗi và mọi cách sống mâu thuẫn với Tin Mừng Cứu Độ để bước đi theo Chúa Kitô, là “con đường, là sự thật và là sự sống.” ( Ga 14: 6)
Như thế, trong thực hành, nếu không cố gắng khép mình vào kỷ luật nội tâm và nương nhờ ơn Chúa nâng đỡ, để xa tránh tội lỗi và trở nên hoàn thiện mỗi ngày, thì hãy nghe lại lời Chúa cảnh cáo như sau trong Sách Khải Huyền:
“ Ta biết các việc ngươi làm. Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẵn hay nóng hẵn đi.Nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” ( Kh 3: 15-16)
Nói khác đi, nếu đi xưng tội mà không có quyết tâm chừa tội để cứ sa đi ngã lại, cứ xưng mãi một tội quen phạm thì sẽ trở thành là người chẳng nóng, chẳng lạnh, cứ hâm hâm, nửa nóng nửa lạnh, như Chúa cảnh cáo trên đây.Và như vậy chắc chắn không thể sống đẹp lòng Chúa và đáng được cứu độ. Chúa nói: “ Ai có tai nghe thì nghe.” ( Mt 13: 43; Mc 4: 23; Lc 8: 8).
3. Ai được lãnh ơn xá ?
Ân xá ( Indulgences) là ơn Giáo Hội lấy từ kho tàng ơn Cứu Độ của Chúa Kitô để tha các hình phạt hữu hạn ( temporary punishment) của các tội nặng nhẹ đã được tha qua bí tích hòa giải.( x SGLGHCG số 1471)
Nghĩa là, sau khi xưng tội cách ngay lành ( không dấu tội nào) và được tha qua bí tích hòa giải, thì hối nhân phải làm việc đền tội do cha giải tội giao cho. Việc đền tội này có mục đích tẩy xóa sạch những hậu quả do tội để lại trong tâm hồn hối nhân, dù mọi tội nặng nhẹ đã được tha. Nếu ai không làm đủ việc đền tội này khi còn sống thì phải đền phạt trong luyện tội ( purgatory) sau khi chết.( x SGLGHCG, số 1030-1031)
Và đây là lý do Giáo Hội ban ơn xá để tha hình phạt hữu hạn nói trên.
Ơn ( Ân ) xá có thể là toàn phần, hay còn gọi là Ơn đại xá ( full indulgences) để tha hết mọi hình phạt hữu hạn , hay từng phần ( partial indulgence) để tha một phần hình phạt trên ( x.giáo luật số 993)
Ơn xá có thể lãnh nhận cho chính mình hoặc nhường lại cho các linh hồn trong Luyện tội , nhưng không thể nhường cho người khác còn sống ( x. giáo luật số 994).
Muốn lãnh nhận ơn xá cách có hiệu quả thì phải sạch tội trọng và làm một số việc lành như xưng tội , dự lễ, rước Mình Thánh Chúa, viếng nhà thờ và đọc các kinh lậy Cha, Kinh mừng, Sáng danh, Kinh Tin Kính và cầu nguyện theo ý Đức Thánh cha.
Ân xá được ban trong những dịp trọng đại như Năm Thánh ( Jubilee Year),
Kỷ niệm thành lập Giáo Phận, hay Dòng Tu, viếng nghĩa trang trong tháng cầu cho các linh hồn ( tháng 11) hoặc dự lễ mở tay của tân linh mục…
Chỉ có Đức Thánh Cha, hoặc thẩm quyền tối cao dưới quyền ngài, mới có quyền ban ân xá cho Giáo Hội hoàn vũ hay Giáo Hội địa phương ( Giáo phận) ( giáo luật số 995).
Giáo phận hay Dòng Tu nào muốn hưởng đặc ân này nhân kỷ niệm trọng đại của mình, thì phải xin phép nơi thẩm quyền tối cao của Tòa Thánh.
Ước mong những giải đáp trên đây thỏa mãn những câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô Xavê Ngô Tôn Huấn