Các bài suy niệm Chúa nhật III Phục sinh năm C

Tin Mừng Ga 21,1-19 Bấy giờ, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả. Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói “Chúa đó!”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước. Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giê-su bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giê-su nói: “Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi chỗi dậy từ cõi chết. Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.”

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm C

Lời Chúa: Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21,1-19

MỤC LỤC

  1. Mục tử
  2. Mẻ lưới.
  3. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan
  4. Mẻ cá
  5. Sứ mạng phục vụ – Cố Lm Hồng Phúc
  6. Thủ lãnh Giáo Hội – Thiên Phúc
  7. Chúa đó
  8. Mầu nhiệm Giáo Hội.
  9. Chúa hiện ra gần biển Tibêria – R. Veritas
  10. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội – R. Veritas.
  11. Hãy tin vào tình thương Chúa.
  12. Tình yêu – Phương thức điều quản Giáo Hội
  13. Bữa ăn trên bờ biển
  14. Mẻ lưới của Lòng Thương Xót
  15. Có Chúa nâng đỡ
  16. Con có yêu mến Thầy không? – Lm. John Nguyễn
  17. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
  18. Suy niệm của Lm. Vinh sơn Nguyễn Thành Trung
  19. Vâng lời – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  20. Hiện ra
  21. Niềm vui Phục Sinh – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
  22. Sống lại
  23. Làm chứng
  24. Vì Chúa
  25. Tiếng gọi
  26. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
  27. Ông ấy không biết mình có sức mạnh như vậy
  28. Đức Giêsu hiện ra ở bờ hồ Tibêria
  29. Chú giải của Noel Quesson
  30. Suy niệm của nhóm Nha Trang

 

1. Mục tử

Vào dịp lễ Giáng sinh năm 1971, viên quản trại đã phân phát cho những tù binh Mỹ đang bị giam giữ tại Hoả Lò, một nhà tù ở Hà Nội, vài ba cuốn Kinh Thánh. Tuy nhiên ông bảo họ phải gom trả vào đêm Noel. Thế là những người lính Mỹ quyết định phải tận dụng khoảng thời gian vắn vỏi ấy. Họ lấy cộng dây thép làm bút. Lấy nước hoà vào bụi gạch làm mực và viết một vài đoạn chính yếu lên những mẩu giấy vụn. Trong số các đoạn Kinh Thánh được chép lại, có dụ ngôn về con chiên lạc. Các tù binh đã sánh ví mình là con chiên lạc ấy. Và họ cũng ghi thêm mấy câu của thánh vịnh 23: Chúa là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì.

Chủ đề về người mục tử cũng là một chủ đề rất quen thuộc trong Kinh Thánh, bởi vì một số người Do Thái vốn sinh sống bằng nghề chăn nuôi súc vật. Và họ đã sánh ví Thiên Chúa với người mục tử. Thực vậy, qua Tin Mừng Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết Ta. Ta hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc về đoàn này. Cả những chiên ấy, Ta cũng sẽ dẫn dắt và chỉ còn một đoàn chiên và một chủ chiên.

Từ đó chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay để nghe Người uỷ thác cho Phêrô tiếp nối sứ mạng mục tử chăn dắt đoàn chiên của Người. Quả là giây phút trọng đại khi Chúa phán với Phêrô: Con hãy chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Thầy.

Tiếp nối vào đó, khi Giáo Hội đã được phát triển, thì tước vị mục tử cũng được mở rộng. Thực vậy, thánh Phêrô thường gọi các Giám mục, những người lãnh đạo Giáo Hội tại từng địa phương là các mục tử, ngài muốn chia sẻ cho họ phần nào vai trò nặng nề của mình và đã nhắn nhủ họ: Các con hãy sống xứng đáng là những mục tử của đoàn chiên Chúa đã trao phó. Hãy nhiệt tình phụng sự đoàn chiên.

Cũng trong tinh thần chia sẻ ấy, chúng ta gọi các linh mục là các mục tử, bởi vì các ngài là những người được tham dự vào quyền bính của thánh Phêrô, của các tông đồ và của các Giám mục, lãnh nhận sự uỷ thác của Đức Kitô.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy, danh hiệu mục tử trước hết được dành cho Đức Kitô. Sau đó, Đức Kitô đã chia sẻ cho Phêrô và các tông đồ. Rồi đến lượt thánh Phêrô và các tông đồ lại chia sẻ cho các Giám mục và linh mục. Chính vì thế trong giây phút này, chúng ta hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa chúc phúc lành cho các vị lãnh đạo Giáo Hội. xin giúp chúng con nhìn thấy các vị ấy thực sự là những dấu chỉ sống động của Chúa đang hiện diện giữa chúng con, cho dù các vị ấy có phạm phải những sai lầm. Và nhất là xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với các ngài, để qua các ngài, Nước Chúa được mở rộng ở khắp nơi trên thế giới.

 

2. Mẻ lưới.

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa.

Suốt đêm hôm ấy các ông đã vất vả và cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì. Sáng đến, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.

Theo nhiều nhà chú giải thì mẻ cá lạ lùng này chính là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Thực vậy, các môn đệ theo lời Chúa chỉ dạy đã hoạt động và ngay khi không có chút hy vọng gì thì cũng vẫn có thể quy tụ mọi người từ mọi nơi thành một cộng đoàn duy nhất, vì các ông đã làm theo lời Đấng đã sống lại. Con số 153 con cá được đưa ra ở đây cũng có thể góp phần làm nổi bật ý tưởng trên. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà động vật học hồi xưa phân biệt được 153 loại cá. Do đó con số này tượng trưng cho tất cả mọi thứ cá trong biển. Và như thế, dưới cái nhìn của các nhà chú giải thì mẻ lưới của các tông đồ sẽ quy tụ toàn thể gia đình nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc thi hành sứ mạng của Chúa Giêsu Phục sinh không phải lúc nào cũng dễ dàng ngay cả đối với các môn đệ. Bài đọc I, trích sách Tông đồ Công vụ đã nêu lên những khó khăn của việc rao giảng Tin Mừng. Các môn đệ đã bị cấm không được rao giảng danh Chúa Giêsu. Lệnh cấm ấy lại xuất phát từ thẩy cả thượng tế. Trong chính cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài cũng đã từng gặp phải những khó khăn từ phía những người lãnh đạo Do Thái giáo. Và cuối cùng Ngài đã phải chết vì tay họ.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới một kết luận thực hành. Kết luận ấy như thế này. Công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh, không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà còn là một bổn phận chung của mọi người tín hữu. Chu toàn được bổn phận ấy không phải là một việc dễ dàng, trái lại ở mọi nơi và trong mọi lúc, người tông đồ đều có thể gặp phải những khó khăn, những phản kháng.

Trong những hoàn cảnh như thế, nếu chỉ cậy dựa vào sức lực và tài năng riêng của mình, chúng ta sẽ dễ dàng nản chí và chắc chắn sẽ đi tới chỗ thất bại. Trái lại nếu biết cậy dựa vào tình thương và ơn sủng của Chúa, chúng ta sẽ luôn có được một lòng hăng hay và nhiệt thành để rồi sẽ đi tới thành công, bởi vì đối với Chúa, không có điều gì mà Ngài không thể làm được.

Noi gương các môn đệ, chúng ta hãy vâng theo lời Chúa, ra khơi và thả lưới, để nhờ đó chúng ta sẽ đem về cho Chúa những tâm hồn sám hối.

 

3. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan

CHÚA GIÊSU PHỤC SINH ĐI CHỌN MỘT NGƯỜI CHĂN DẮT CHIÊN CỦA CHÚA

Sách Tin Mừng Gioan kể chuyện thánh Phêrô chối Chúa (Ga 18,15-17) với mấy đặc điểm sau đây:

Khi bọn sai nha đến bắt Chúa, Chúa ra đón và hỏi: các anh tìm ai? Họ đáp: Giêsu Nadaret.

Chúa trả lời: “Ta Là”. Họ ngã ngửa. Họ đứng lên, Chúa hỏi nữa. Rồi Chúa nói: Tôi đã bảo các anh: “Ta Là”. Trong bản văn Hy Lạp (Ego eimi: Ta Là) đây là Thánh Danh Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê (Xh 3,14). Trong Sách Tin Mừng Gioan nhiều lần Chúa Giêsu dùng danh xưng này để nói về mình.

Khi ông Simon Phêrô vào sân dinh Thượng Tế và ngồi sưởi ké bên đống lửa than của bọn sai nha, ba lần bị chỉ mặt là môn đệ của Chúa Giêsu thì ba lần ông chối: Không phải (oukh eimi: ‘tôi không là’ ngược với lời Chúa Giêsu khẳng định: ‘Ta Là!’

Hôm nay, người môn đệ mà trong bữa Tiệc Ly ông đã nhờ hỏi nhỏ Chúa xem ai là kẻ phản nộp Chúa, nói với ông: “Chúa đấy”. Nghe thế ông liền lấy áo quấn ngang lưng, vì ông đang trần truồng, và ông nhảy xuống nước.

Trong sách Sáng Thế, sau khi trái cấm mở mắt cho Adam + Evà thấy mình trần truồng, họ lấy lá vả (là thứ lá cây lớn nhất thường thấy) quấn ngang lưng; rồi khi nghe tiếng bước chân Thiên Chúa thì họ núp vào lùm cây. Thiên Chúa gọi: “Ađam, người ở đâu?”.

Sách Tin Mừng Gioan không kể chuyện gì xảy ra với ông Simon Phêrô sau tiếng gà gáy, như các sách Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng để dành đến hôm nay mới trở lại câu chuyện. Ông Simon Phêrô phản ứng giống Ađam. Ađam ở trong vườn thì có lùm cây mà núp, Phêrô đang trên thuyền thì chỉ có cách nhảy xuống nước mà núp.

Vào bờ ông cũng thấy một đống lửa than, Chúa Giêsu dọn cho ông và các bạn, lại có bánh và cá đặt trên. Đống lửa than này làm sao mà không gợi cho ông Phêrô nhớ lại đống lửa than của của bọn sai nha trong sân dinh Thượng Tế cái đêm tăm tối kia.

Chúa bảo: ‘hãy đến mà ăn’. Chúa đến, cầm lấy bánh và cá trao cho các ông. Cảnh này gợi lại hôm Chúa ngồi trên núi, trao bánh và cá cho đám đông (ch.6).

Sau bữa Chúa đãi đám đông trên núi, tại Ca-phac-na-um, khi nhiềumôn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (6,67) thì ông Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai khẳng khái: “Bỏ Thầy chúng con đi với ai …”.

Sau bữa ăn sáng quanh đống lửa than bên hồ, Chúa gọi đích danh và hỏi: “Simon con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Sự so sánh này làm cho ông phải nhớ lại lời ông cam kết trong bữa Tiệc Ly: “Con sẽ hy sinh mạng sống con vì Thầy” (13,37). Hôm nay thì ông không còn dám vỗ ngực tự phụ như thế nữa. Ông dựa vào Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết …”. Phiền nỗi là Chúa lặp lại cùng một câu hỏi hai lần nữa, nhưng tế nhị bỏ cái vế so sánh cho ông đỡ ngượng. Đến lần thứ ba thì ông hết chịu nổi, ông buồn, và ông nại đến sự thông biết vô cùng của Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết …” (x.Tv 139).

Bên đống lửa than trong sân dinh Thượng Tế, ba lần trong một đêm ông nhận rằng ông chẳng là gì.

Sáng nay ông và các bạn nhận mình là những kẻ đánh cá vô tích sự, suốt đêm chẳng được gì để ăn.

Sáng nay ông vừa nhận ra mình là kẻ trần truồng và đi núp, giống như Ađam.

Bên đống lửa than của Chúa ở bờ hồ, khi trả lời câu Chúa hỏi ba lần, ông chỉ còn biết dựa vào sự thông biết, sự thông biết vô cùng của Chúa.

Bây giờ thì Chúa có thể an tâm trao cả chiên mẹ. chiên con của Chúa cho ông chăn nuôi, và Chúa cũng đòi ông giữ cả lời hứa hy sinh mạng sống, nhưng không phải thay cho Chúa, mà để tôn vinh Thiên Chúa giống như Thầy Giêsu, vị Mục Tử kiểu mẫu, hiến mạng sống vì đoàn chiên.

Ngày đầu, ông nghe lời Thầy của ông là vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Giêsu và đi theo.

Hôm nay, sau khi đã cho ông biết rõ sứ mạng và số phận của ông, chính Chúa Giêsu trực tiếp gọi ông: “Hãy theo Thầy”.

Trong nghi thức bầu Giáo Hoàng, sau khi đắc cử, vị tân cử phải trả lời hai câu hỏi theo nghi thức: “Ngài có nhận kết quả bầu cử này không?” và “Ngài nhận tông hiệu là gì?”

Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời câu hỏi thứ nhất như sau: “Tôi là kẻ tội lỗi và tôi ý thức điều đó, nhưng tôi rất tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì các vị đã bầu tôi, đúng hơn, vì Chúa đã chọn tôi, tôi nhận”. (ĐHY Philippe Barbarin kể lại trong lời tựa cuốn sách “Amour, Service et Humilité” (Bài giảng tĩnh tâm của ĐHY Jorge Mario Bergoglio S.J., cho các Giám Mục Tây Ban Nha năm 2006)

Nội dung câu trả lời thâu tóm câu chuyện của thánh Phêrô.

 

4. Mẻ cá

Phêrô và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới một lần nữa và đã có được một mẻ cá lạ lùng.

Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.

Sau bữa ăn thân mật ấy, Ngài đã tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, thay mặt cho Ngài ở trần gian, Ngài muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người khác. Đồng thời Ngài cũng muốn sửa lại sự yếu đuối của Phêrô vì đã chối bỏ Ngài ba lần trong cuộc thương khó. Và Phêrô cũng đã bày tỏ tình yêu của mình một cách đơn sơ và chân thành, bằng cách trả lời: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài.

Như thế, Phêrô và những đấng kế vị ông trên ngôi Giáo Hoàng đã có được một chỗ đứng ưu việt trong cộng đồng Dân Chúa. Vào những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất, chúng ta hãy lắng nghe và ngước nhìn vị cha chung của chúng ta là Đức Giáo Hoàng. Ngài chính là ngọn hải đăng soi chiếu và dẫn đưa chúng ta tới bến bờ cuộc sống vĩnh cửu. Giông tố có thể nổi lên. Mặt biển có thể dậy sóng, nhưng chúng ta vẫn không nao núng, bởi vì ánh sáng từ ngai toà Phêrô luôn toả chiếu, để chúng ta nhận ra con đường phải đi. Vâng phục Đức Thánh Cha, chúng ta sẽ không bao giờ bị sóng nước vùi dập.

Sau khi đã cắt đặt Phêrô đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng đã nói trước cho Phêrô được biết: Một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ đón ông. Tương lai ấy đòi hỏi Phêrô phải dám hy sinh cả mạng sống như một chủ chăn nhân lành. Ngài nói: Khi còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ giơ tay ra và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn. Thánh Gioan đã xác nhận: Chúa Giêsu nói những lời ấy để chỉ cho Phêrô biết sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa.

Qua dòng thời gian, biết bao nhiêu vị tử đạo đã đi trên dấu chân của Phêrô, sẵn sàng hy sinh mạng sống để tôn vinh Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, biết bao nhiêu người đang âm thầm chịu đựng những khổ đau, những thiệt thòi, để làm chứng cho đức tin của mình. Những người này đã vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.

Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho bản thân, cũng như cho những anh chị em đang gặp phải những gian nan thử thách, để nhờ đó luôn được đứng vững trong niềm tin của mình.

 

5. Sứ mạng phục vụ – Cố Lm Hồng Phúc

Sau tuần lễ Vượt Qua và Phục Sinh các Tông đồ lại đi làm, trở về với cuộc sống thường nhật. Họ lui về Galilêa, chuẩn bị thuyền bè để ra khơi đánh cá. Sau một tuần lễ nghỉ, nói đến việc đi làm thật chán ngấy. Nhất là đã có bao nhiêu biến cố xảy ra, vừa vui, vừa buồn, vừa hồi hộp. Phêrô nói với các bạn một câu cụt ngủn: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông uể oải trả lời: “Chúng tôi đi với”. Họ không đi đánh cá thì không biết làm gì. Mà không làm gì thì không có ăn!

Đời sống lam lũ làm ăn chiếm cả thời giờ của chúng ta, làm hùng hục, làm hai ba “job”, làm như…trâu, nên mới có danh từ “đi cày”. Vì thế, nhiều khi chúng ta quên cả Chúa, không nhận ra Chúa như các Tông đồ sáng hôm nay. Sau một đêm thức trắng mà không bắt được một con cá nào, họ chèo thuyền về bến. Chúa Giêsu hiện ra hỏi họ nột câu đầy thân tình: “Này, các con có gì ăn không?”. Các ông không nhận ra Chúa và vì mệt nhọc, bực bội, nên trả lời khô khan rằng không có.

Vậy, nhận định thứ nhất là Chúa hằng ở với chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời. Nhất là lúc buồn rầu chán nản thất bại, nhưng chúng ta không hay biết. Bà Thánh Catharina bị cám dỗ về đức tin rất nặng. Hôm sau, được Chúa hiện ra, Bà hỏi Chúa với vẻ hờn dỗi: “Lạy Chúa, khi con đau khổ chiến đấu, thì Chúa ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Ta ở trong lòng con”.

Ta không nhận ra Chúa vì thiếu điều kiện. Trong 7 ngư phủ trở về, chỉ có một mình Gioan nhận ra, vì –theo Phúc Âm- Ông là đồ đệ Chúa yêu thương. Yêu là tần số đặc biệt để bắt được tiếng Chúa.

Nhận định thứ hai, qua bài Phúc Âm, là vai trò của Phêrô. Phêrô là một người lãnh đạo. Ông quyết định đi đánh cá, thả lưới bên hữu thuyền, theo lời người khách lạ chập chờn trong màn sương sớm, và bắt được 153 cá lớn mà lưới không rách…

Giáo hội gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, trải bao cuộc sóng gió ba đào vẫn không nao núng. Và, sau phép lạ vừa nói, Gioan tường thuật ngay câu chuyện Chúa chọn Phêrô để “cai trị đoàn chiên mẹ và đoàn chiên con”; một sứ mạng phục vụ hơn là cai quản, dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu mến. “Hỡi Simon, con Gioan, con có yêu mến Thầy không?” “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy” – “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy” (Gio 21, 16-17).

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa lúc vui, cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại, thành công không tự mãn, thất bại không nản lòng. Tất cả mọi việc con xin dâng cho Chúa, phần thắng lợi để tôn vinh Chúa, phần thiếu xót con xin nhận lãnh để đền tội lỗi của con, nhưng “mọi sự đều là ơn của Chúa”.

 

6. Thủ lãnh Giáo Hội – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Câu chuyện truyền kỳ về những ngày sau cùng của một con người đã hết lòng yêu mến Chúa, và đã cảm nghiệm sâu xa ơn thứ tha của Người, được kể lại như sau:

Ông đến Rôma giữa lúc Nêrông đang bắt bớ đạo thánh. Một số người đã chịu tử đạo. Tình thế nguy kịch, nên các tín hữu khuyên ông hãy chạy trốn ra khỏi thành, để còn người duy trì và giữ vững đạo thánh.

Khi ra khỏi cổng, ông gặp một người đang vác thập giá đi vào thành Rôma. Ông lên tiếng hỏi: “Quovadis?”nghĩa là “Người đi đâu đó?”Người ấy trả lời: “Thầy đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”. Ông chợt hiểu, vội vàng quay lại Rôma. Ông nhập vào hàng ngũ các tín hữu sắp chịu cực hình để an ủi họ và giúp họ giữ vững niềm tin. Sau khi chứng kiến các tín hữu bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, bị hoả thiêu trên một rừng thập giá, thì chính ông cũng bị đóng đinh ngược, đầu quay xuống đất, theo lời ông xin, vì nghĩ mình không xứng đáng được đóng đinh như Thầy.

Con người ấy chính là Phêrô, và cái chết ấy đã được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giương tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”.

Vâng, Phêrô một con người rất bộc trực, nóng nảy, hay sa ngã và sa ngã thậm tệ. Có lần Chúa đã gọi ông là Satan, và mới đây nhất, ông đã chối Chúa tới ba lần. Nhưng con người đầy khuyết điểm ấy Chúa đã chọn làm “đá tảng”, thủ lãnh của Giáo Hội. Vai trò lãnh đạo của Phêrô được tỏ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay:

Sau biến cố Phục sinh, các tông đồ trở về đời sống thuyền chài. Phêrô vẫn là người quyết định: “Tôi đi đánh cá đây”. Các môn đệ khác cũng đồng tình: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Đêm ấy, không bắt được con cá nào. Trời sáng, theo lời người khách lạ, thả lưới bên phải mạn thuyền, một mẻ cá bất ngờ. Khi vừa nghe Gioan nói: “Chúa đó!”Phêrô liền nhảy xuống biển, đến với Người. Ông rất nồng nhiệt, năng nổ, hăng hái.

Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn”. Vâng, Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Từ đấy, Phêrô đích thực trở nên thủ lãnh của Giáo Hội, chăm sóc đoàn chiên của Thầy, và cuối cùng đã hiến mạng sống vì đoàn chiên. Phêrô đã chịu đóng đinh trên thập giá, để giữ vững niềm tin cho đoàn chiên, và để yêu thương đoàn chiên cho đến cùng, yêu “Như Thầy đã yêu”.

 

7. Chúa đó

(Trích trong ‘Manna’)

Bảy môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.

Dù đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh.

Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời mời kín đáo: “Tôi đi đánh cá đây.”Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại: “Chúng tôi cùng đi với anh”. Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm. Đây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng. Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm, và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.

Tuy nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau.

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ. Nhưng sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền. Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn, vội vã mặc áo, nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.

Hai phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.

Có thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh.

Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa những khác biệt. Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người.

Đây không phải là một nhóm bạn khép kín, nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi.

Chính sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài là bảo đảm cho thành công của những lần buông lưới.

Hội Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới.

“Không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).

Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn.

Nhóm bạn được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ, được sai đi bởi Chúa và được quy tụ bên Chúa.

Chúa Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng.

Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông.

Cử chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ.

Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa ăn, qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài. Chúng ta được mời dùng bữa trong niềm hân hoan vui sướng.

Hội Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể.

Hội Thánh vừa lan rộng khắp nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ.

Đó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội Thánh.

Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô.

Phêrô tưởng tự mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy, nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên báo. Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu: “Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”. Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với ba lần giao sứ mạng: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.”

Phêrô được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh, cũng là chia sẻ thập giá của người hiến mạng vì đoàn chiên. Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến. Có lẽ bây giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.

Gợi Ý Chia Sẻ

Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta trong đời thường, giữa lúc ta nhọc nhằn và tay trắng. Có khi nào bạn thấy Chúa đến với bạn và cho bạn một “mẻ cá lớn”không?

Bạn nghĩ gì về Hội Thánh Việt Nam? Đó có phải là một Hội Thánh đầy tình huynh đệ, được sai đi, được nuôi dưỡng bằng các bí tích và được lãnh đạo bằng tình yêu không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

 

8. Mầu nhiệm Giáo Hội.

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.

Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.

Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.

Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
  2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?
  3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?

 

9. Chúa hiện ra gần biển Tibêria – R. Veritas

(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)

Trong số các Giám Mục nổi tiếng can đảm của Giáo Hội Châu Mỹ La tinh, phải kể đến Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô San Sanvador. Ngày Đức Cha còn sống, Chúa nhật nào nhà thờ chính tòa cũng chật ních tín hữu đến tham dự thánh lễ và nghe ngài giảng. Đức Cha thường cho giáo dân biết tin tức liên quan đến Giáo Hội, đến tình trạng trong nước và mạnh mẽ lên án tình trạng bạo lực, bất công và nghèo đói do chính quyền cũng như phe du kích gây ra cho dân chúng. Đức tổng giám mục Romero cũng dùng đài phát thanh để gây ý thức nơi dân chúng và thẳng thắn tố cáo các vụ vi phạm quyền con người do các lực lượng nói trên chủ mưu. Nhưng tiếng nói của Đức cha không làm cho chính quyền quân đội El Sanvador cũng như lực lượng du kích hài lòng. Sau nhiều lần hăm dọa mà không có kết quả, những kẻ thù ghét Đức Cha đã quyết định giết ngài. Sáng ngày 24/03/1980 họ đã sai người ám sát Đức tổng Giám mục Romero ngay trong nhà nguyện của bệnh việc thủ đô, nơi Đức tổng Giám mục hằng ngày vẫn đến dâng thánh lễ cho các nữ tu, nhân viên y tế và bệnh nhân. Kẻ sát nhân ngồi trà trộn trong số các tín hữu hiện diện. Không hiểu Đức cha có linh cảm mình sắp sửa phải đổ máu ra như hiến tế mưu cầu hòa bình cho một dân tộc El Sanvador hay không, nhưng trong vài lời suy tư ngắn trong Phúc Âm, Đức cha nói: “Như chủ chăn sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên, Ngài cũng sẵn sàng chết miễn là nước nhà được hòa bình tươi sáng, nhân dân El Sanvador được sống trong ấm no thịnh vượng”. Đức Cha rời tòa giảng tiến lên bàn thờ, thì chính lúc đó kẻ sát nhân tiến lên rút súng bắn Ngài. Đức Tổng Giám mục Romero gục ngã trước bàn thờ máu lênh láng chảy và thánh lễ cuối cùng của vị chủ chăn hôm đó đã dang dở, nhưng đã thành Thánh lễ trọn vẹn. Vì vị chủ tế đã trở thành con chiên hiến tế y như Chúa Giêsu trên Thập giá ngày xưa.

Đức tổng Giám mục Romero đã chết vì đã trung thành với sứ mệnh chủ chăn của Ngài: “Thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời người ta”. Cái chết tử đạo của Đức cha giúp chúng ta hiểu sứ điệp Lời Chúa trong Phụng Vụ Chúa Nhật III mùa Phục Sinh hôm nay.

Sách Tông đồ công vụ là cuốn sách kể lại lịch sử thời giáo hội sơ khai, trong đó, nét nổi bật nhất của Giáo hội thời đó là thực tại Kitô hữu bị bách hại. Cũng như Chúa Giêsu đã bị khước từ và bị bắt bớ trong lúc rao truyền Tin Mừng cứu độ thế nào, thì giờ đây cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cũng bị bắt bớ như vậy.

Tin Mừng mà các tông đồ vâng lệnh Chúa Giêsu tiếp tục rao giảng được dân chúng đón nhận như bị giới lãnh đạo khước từ, đặc biệt là giới lãnh đạo tôn giáo. Ngay từ đầu, các tông đồ đã ý thức được rằng khi các nhà lãnh đạo chống đối lời rao giảng là họ đã chống đối chính Thiên Chúa và ch#432;ơng trình của Ngài, chứ không phải chỉ chống lại các tông đồ, vì các tông đồ chỉ là dụng cụ loan báo Tin Mừng cứu độ. Nói cách khác, mọi cuộc bách hại Kitô hữu đều bắt nguồn từ thái độ thù ghét Thiên Chúa và chống lại chương trình cứu độ của Ngài. Chương trình mà chính Chúa Giêsu Kitô đã thành toàn qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài. Nhiều người Do thái dù rất đạo đức và chân thành cũng không chấp nhận Chúa Giêsu và giáo huấn của Ngài. Đối với họ, Chúa Giêsu đã không sống theo luật Môisê và giáo huấn của Kinh Thánh, vì thế họ cần phải thủ tiêu Ngài. Nhân danh các luật lệ và giáo huấn, giới tư tế đã cấm các tông đồ phổ biến sứ điệp của Chúa Giêsu. Nhưng lời rao giảng của các tông đồ có mục đích giúp mọi người hiểu rằng: “Giáo huấn Kinh Thánh dẫn đưa con người đến chỗ gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đã thành toàn chương trình cứu độ”.

Tin Mừng của Chúa Giêsu tiếp tục Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái, vì thế mọi người phải vâng lời Thiên Chúa, Đấng đã nói qua các ngôn sứ và sau cùng qua Đức Giêsu, Đấng đã hứa trao ban ơn tha tội và ơn cứu rỗi cho con người, Đấng đã từng bước trong lòng lịch sử dân Do Thái, và sau cùng trong bản tính nhân loại của Đức Giêsu thành Nazareth, nghĩa là phải vâng lời Thiên Chúa của toàn Kinh Thánh và trở về với Ngài chứ không phải là chiều theo ý muốn của giới lãnh đạo trần gian.

Áp dụng vào trong cuộc sống thường ngày, qua chương 5 sách Tông đồ Công vụ, Thiên Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta điều này: Ngài cần đến các nhân chứng biết vâng lời bằng thái độ không vâng theo giới lãnh đạo trần gian dối trá, tham lam và ác độc. Bằng cách biết nói “không” với các đề nghị và dàn xếp đổi chác của họ, biết cương quyết nói “không” trước những ve vuốt, tâng bốc hứa hẹn, lợi lộc và cạm bẫy họ giăng để biến đổi Tin Mừng trở thành dụng cụ phục vụ họ và vô hiệu hóa giáo huấn của Chúa. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời bằng cách cương quyết chống lại tất cả những gì đe dọa sự sống, phẩm giá, tự do và tính chất thánh thiêng của con người. Thiên Chúa muốn Kitô hữu sống vâng lời Ngài bằng cách nói “không” với tất cả những gì nghịch với luật Chúa và lương tâm của mình. Cho dù tiếng “không” ấy được cất lên mà có phải thất bại và thiệt hại trong cuộc sống đi nữa, thì họ vẫn cương quyết giữ vững lập trường để bảo vệ giáo huấn Tin Mừng của Ngài. Chỉ khi nào người tín hữu Kitô biết sống như thế thì họ mới diễn tả trung thực lòng tin của mình vào Chúa Kitô Phục Sinh mà họ tôn vinh và cử hành trong Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật trong năm.

Cũng giống như kinh nghiệm của tác giả sách Khải Huyền trong chương 5, “chính trong bầu khí Phụng Vụ Chúa Nhật, chính lúc tụ họp nhau lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể mà Kitô hữu sẽ được sống kinh nghiệm sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh và bối cảnh cuộc sống thần thiêng vĩnh cửu mai sau.

Nói một cách khác, các buổi cử hành Phụng Vụ Thánh Thể rất quan trọng trong đời sống đức tin của người tín hữu Kitô vì đó là suối nguồn ân thánh giúp vun trồng đồng cỏ cuộc sống thiêng liêng và ba loài hoa quí là tin cậy mến. Nếu không ý thức được sự thật tuyệt vời này, Kitô hữu sẽ không bao giờ sống Phụng Vụ một cách trọn vẹn. Mỗi một Kitô hữu, mỗi một cộng đoàn Kitô hữu không sống các thực tại nhiệm mầu của Phụng vụ một cách trọn vẹn và sâu thẳm thì sớm muộn cũng trở thành thờ ơ bất động, tê liệt và nguội lạnh. Mà nguội lạnh là sắp chết nếu không nói là đang chết hay đã chết như một cái xác không hồn bất động. Nếu không biết ý thức và cảnh tỉnh, người Kitô hữu rất dễ trở thành những cái xác nguội lạnh không hồn và sẽ là những bộ phận ung thối rữa nát trong thân mình Giáo Hội.

Chương 21, thánh Gioan đã tường thuật biến cố Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các tông đồ và can thiệp giúp các ông đánh được mẻ cá lớn sau một đêm lao nhọc mỏi mệt mà chẳng bắt được gì. Qua đó, thánh sử muốn nhắn nhủ chúng ta những điều sau đây:

  1. Nếu không muốn lao nhọc một cách vô ích trong công việc làm và cuộc sống mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu Phục Sinh để Ngài hoạt động, hiện diện và hướng dẫn chỉ vẽ cho chúng ta trong mọi sự: nghĩa là biết vâng lời Đức Kitô Phục Sinh quẳng lưới phía bên phải. Trong truyền thống Kinh Thánh, bên phải là phía của phúc lành. Rất tiếc trong cuộc sống chúng ta lại thường cứng đầu cứng cổ, quẳng lưới bên trái là phía của án phạt và chúc dữ.
  2. Chúng ta hãy biết noi gương Chúa Giêsu Phục Sinh duy trì chiều kích nhân bản của cuộc sống. Phúc âm thánh Gioan là Phúc âm thiêng liêng kết thúc với hình ảnh Chúa Giêsu Phục Sinh sửa soạn bữa ăn sáng cho các tông đồ trên bờ hồ Tibêria chứng minh cho thấy tất cả chiều kích nhân bản trong kiểu cách sống của Chúa Giêsu. Đức Giêsu thành Nazareth trước kia và Chúa Giêsu Phục Sinh giờ đây vẫn là một. Ngài chuyện vãn đối thoại với các tông đồ. Ngài chú ý đến công việc làm, các sinh hoạt, các vấn đề khó khăn của họ và ngồi ăn với họ.

Mầu nhiệm Nhập Thể dạy cho chúng ta biết rằng đức tin của chúng ta sẽ không vững chắc nếu không được xây trên chiều kích nhân bản với tất cả cái phong phú tuyệt diệu của nó.

Khi còn sống và rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã luôn luôn yêu thương bênh vực những người nghèo hèn, bé nhỏ bị gạt ra lề xã hội. Giờ đây, khi trao ban cho Phêrô chăn dắt chiên con, chiên mẹ, biểu tượng cho lớp người yếu đuối, khiêm tốn, bé nhỏ, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục đường hướng mục vụ ấy và muốn Giáo hội tiến bước trên con đường này.

  1. Trong sứ mệnh phục vụ này, cường độ của tình yêu thường là điểm qui chiếu và thước đo duy nhất. Càng yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều bao nhiêu thì công tác phục vụ của Phêrô càng trung thực với tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô và càng hữu hiệu bấy nhiêu.

Vấn đề ở đây không phải là khả năng trí thức, học cao biết rộng, mà là biết yêu mến nhiều nhất, yêu thương nhiều hơn hết đó là tước hiệu duy nhất có giá trị biện minh cho quyền bính cai trị, nghĩa là phục vụ trong Giáo hội.

  1. Tinh thần sẵn sàng theo Chúa Giêsu Kitô không phải để bước đi trên con đường danh vọng có nhiều đặc quyền đặc lợi, được người đời ca tụng kính nể, mà là để bước đi trên con đường Thập Giá khổ đau dẫn đến cái chết Phục Sinh.

 

10. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội – R. Veritas.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Những bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội, cộng đoàn những kẻ tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Rỗi. Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người, là sự dấn thân của con người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng cho Chúa và thông truyền cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giải hòa con người với Thiên Chúa và với nhau.

Nơi bài đọc thứ nhất từ sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta nhìn thấy các tông đồ đã sống thái độ vừa nói trên. Bị những vị lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu rỗi, bị những vị lãnh đạo uy quyền này của dân Do Thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa. Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người. Thiên Chúa, Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại. Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài và làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế, để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tuân phục Chúa, chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng.”

Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng của thái độ can đảm này, thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô và sự thật cứu rỗi của Người. “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người”, đọc và suy nghĩ về lời này của thánh tông đồ Phêrô trong hoàn cảnh mà chính thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những vị lãnh đạo dân Do Thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền và họ là những vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái cùng với quyền lãnh đạo dân Do Thái; Khi những vị lãnh đạo Do Thái này lạm dụng quyền hành của họ để xen vào việc tôn giáo, việc các tông đồ làm chứng Chúa Kitô Phục Sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo. Khi các vị lãnh đạo Do Thái lạm dụng quyền hành của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải có một trong hai thái độ hoặc theo Chúa Giêsu Kitô, hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do Thái, thì lúc đó, thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Giêsu Kitô, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo chứ không phải là lời kêu gọi dân chúng nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị.

Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ cho những tội lỗi, những tật xấu, những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo ngôn ngữ ngày nay, được hưởng sự tự do như đáng được, thì các ngài đâu cần phải xác nhận là phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người.

Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế chỗ của Thiên Chúa được? Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này, làm sao chúng ta có thể nói mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội, để sống đúng phẩm vị con người, sống như là những con cái của Thiên Chúa, và như là anh chị em với nhau? Ai trong chúng ta không cần được nâng đỡ và được khuyến khích để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa, và cuối cùng, sau hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm, hay một trăm năm, sẽ trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.

Thái độ của các tông đồ được trình bày trong bài đọc thứ nhất của thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. “Chúng tôi và Thánh Thần”, không phải riêng tự sức các tông đồ nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Ơn Chúa không thiếu, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?

Bài Phúc Âm cũng kể lại biến cố Chúa hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống thường nhật trước khi được Chúa gọi, trở về nghề chài lưới. Chúa đến để củng cố sự dấn thân của họ và chúng ta biết rõ điều gì đã xảy ra cho các tông đồ. Chúa đến củng cố các ngài bằng một phép lạ và một bữa ăn. Bữa ăn bổ sức trong tình thân thiết Thầy trò, để các tông đồ có sức mạnh và niềm vui mà chu toàn sứ mạng đã lãnh nhận. Bài Phúc Âm hôm nay mang đến cho chúng ta niềm vui mừng và củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào Giáo Hội Chúa vì những lý do sau đây:

Chúa Kitô Phục Sinh không từ bỏ các môn đệ, những kẻ cách này hay cách khác đã vấp ngã trong thử thách Chúa đã trải qua, tức cuộc khổ nạn và chết của Chúa trên thập giá. Chúa sống lại không quở trách các ông mà ngược lại đã ban cho các ông bình an và niềm vui: “Bình an cho các con”, như thể Chúa đã nói: “Thầy không chấp những lỗi lầm của các con đã bỏ Thầy, Thầy tha thứ cho các con, và hơn nữa, ban ơn Thánh Thần để đổi mới các con, cho các con được kiên vững trong tình yêu Thầy, để luôn luôn có sự bình an giữa sự thử thách”.

Hơn nữa, như trong Phúc Âm ghi lại Chúa Giêsu thực hiện phép lạ mà chính Chúa đã thực hiện khi kêu gọi các tông đồ lần đầu tiên, phép lạ lưới được nhiều cá, và làm như vậy, các tông đồ hiểu rằng Chúa Phục Sinh mời gọi họ, tiếp tục mời gọi họ theo Ngài mặc cho những lỗi lầm của họ. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta đóng góp phần của mình trong Giáo Hội và Chúa không bao giờ từ bỏ chương trình Ngài đã định.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con được bình an và niềm vui. Xin thương đổ tràn Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con cho chúng con được củng cố trong đức tin và trung thành trong sứ mạng đã lãnh nhận.

 

11. Hãy tin vào tình thương Chúa.

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Nếu như Thánh Phaolô với biến cố té ngựa trên đường Damát đã thay đổi cuộc đời, thì thánh Phêrô với ba lần công khai nói lên lời “yêu mến Thầy”, là dịp để ông đứng dậy làm lại cuộc đời. Hay nói đúng hơn là Chúa đã tạo cơ hội để Phêrô chuộc lại lỗi lầm. Lỗi lầm mà bởi nhất thời yếu đuối ông đã vấp phạm trong đêm tối vườn Cây Dầu.

Thực vậy, người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu hủy sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một ngư dân chất phát, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: “nếu anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy, tuy đã rút gươm chém đứt một tai của người lính. Một hành động mà Chúa chẳng hoan nghênh lại còn kết án: “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Ông ân hận. Ông muốn chuộc lại lỗi lầm. Ông vẫn đi theo Chúa xen lẫn đám đông dân chúng đang cuồng nhiệt đòi kết án từ hình Thầy Chí Thánh. Một hành động táo bạo biểu lộ lòng thật chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Ông muốn biểu lộ một tình yêu sâu xa với Thầy mình, nhưng “lực bất tòng tâm”. Ông không đủ can đảm đối phó với sự dữ. Ông đã sợ hãi chối Thầy đến ba lần. Nhưng may mắn cho cuộc đời ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm đã thức tỉnh lòng ông. Ông biết lỗi của mình. Ông đã đứng dậy và bước ra ngoài sự dữ. Ông đã dứt bỏ nơi chốn nên cớ vấp phạm. Ông đã ra khỏi sân tiền đình và khóc lóc ăn năn.

Và sau một “cuối tuần mất mát” đầy đau khổ. Có lẽ Phêrô đã sống trong dằn vặt của lương tâm. Tại sao ông lại bỏ Thầy? Tại sao ông lại chối Thầy đến ba lần? Ông biết trái tim ông yêu Chúa rất chân thành. Thế mà vì yếu đuối và hồ đồ ông đã phạm qúa nhiều sai lầm. Làm sao ông có thể chuộc lại lỗi lầm? Chúa đã sống lại và hiện ra nhiều lần, nhưng ông không hề dám nói một lời nào với Thầy. Vì ngại ngùng. Vì hổ thẹn. Phêrô dường như không dám nghĩ mình còn xứng đáng là trụ cột cho các anh em.

Hôm nay Chúa Phục sinh hiện đến và cho Phêrô một cơ hội chuộc lại lỗi lầm. Sau khi đã cho các ông một mẻ lưới đầy cá và cùng ngồi ăn uống với các ông, Chúa đòi Phêrô phải công khai nói lên tình yêu của mình với Thầy Chí Thánh trước mặt các môn đệ khác. Chúa hỏi Phêrô con ông Giona, “con có yêu mến Thầy không?”. Câu hỏi được lập lại ba lần như cơ hội cho Phêrô chuộc lại lỗi lầm vì tội ba lần chối Chúa. Chúa đã cho Phêrô cơ hội để nói lên lòng mình yêu mến Chúa. Chúa còn trao trọng trách cho Phêrô chăn dắt đàn chiên của Chúa, như dấu chỉ sự tín nhiệm mà Chúa đã ưu ái dành cho ông.

Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi lầm. “Ai nên khôn mà không dại một lần”. Ai cũng cần tình yêu để sống và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và giúp nhau hoàn thiện con người của mình.

Nguyện xin Chúa là Đấng luôn đi trước trong tình thương tha thứ giúp chúng ta học nơi Chúa để đối xử khoan dung với nhau. Amen.

 

12. Tình yêu – Phương thức điều quản Giáo Hội

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

Mầu nhiệm Phục Sinh là điểm quy chiếu căn bản của đời sống đức tin nơi các Kitô hữu. Giáo hội được khai sinh từ biến cố quan trọng này. Vì thế, trong những Chúa Nhật mùa Phục sinh, Giáo hội chọn những bài học trong phụng vụ để mời gọi chúng ta nhìn lại Giáo hội thuở sơ khai, nhất là học hỏi cảm thức đức tin nơi các Tông đồ sau khi các Ngài đã tiếp cận với Đấng Phục sinh. Đức tin của các Tông đồ có một nền tảng chắc chắn, dựa vào kinh nghiệm được gặp gỡ Chúa, Đấng đã từ cõi chết chỗi dậy, và đức tin đó được thông truyền cho chúng ta ngày hôm nay.

Mẻ cá lạ lùng, hình ảnh Giáo hội phổ quát

“Tôi tin Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Đó là những tín điều căn bản về Hội Thánh mà chúng ta vẫn tuyên tín. Hình ảnh mẻ cá lạ thường mà thánh Gioan thuật lại hôm nay giúp chúng ta tái khẳng định những xác tín quan trọng ấy.

Phêrô đã gặp Chúa sau khi Chúa sống lại. Các Tông đồ khác cũng vậy. Chúa Giêsu vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện giữa họ, nhưng không phải với cách thức như trước đây khi Ngài chưa đi thụ nạn. Vì vậy, Phêrô và các bạn khác vẫn chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Phục sinh một cách tròn đầy. Họ đã trở về cuộc sống đời thường với nghề đánh cá: “Tôi đi đánh cá đây” (Ga 21,3), và “Chúng tôi cùng đi với anh”. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được con cá nào. Sau đó, Chúa hiện ra và chỉ dẫn các ông: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”. Phêrô đã vâng theo và phép lạ đã xảy ra qua một mẻ cá đầy ắp.

Thánh ký Gioan là một thần học gia uyên thâm. Ngài không mô tả sự kiện như một biến cố bình thường. Những chi tiết thánh ký thuật lại đều mang chở một ý nghĩa thần học sâu sắc. Các tác giả Tin mừng nhất lãm, như Lc 5, 1-11, cũng thuật lại sự kiện trên, nhưng đặt trong một bối cảnh khác và với một hướng đích khác. Còn thánh Gioan đã lồng câu chuyện vào trong kinh nghiệm của các Tông đồ khi gặp gỡ Đấng Sống lại.

Mẻ cá 153 con là hình ảnh biểu trưng tính phổ quát của ơn cứu độ. Con số đó cũng gợi lên tính viên mãn của ân sủng mà Chúa Giêsu đã hiển thị qua sự Phục sinh của Ngài. Thời bấy giờ, theo cái nhìn hải dương học, tất cả chỉ có 153 loại cá. Thánh Gioan đã vay mượn ý niệm đó để quảng diễn mầu nhiệm Giáo hội. Giáo hội mà Đức Kitô Phục sinh khai mở sẽ đem lại ơn cứu độ phổ quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, và đây cũng chính là đặc nét ‘công giáo’ của Hội thánh Chúa Kitô.

Sức mạnh của Lời

Lời khuyến mời của Chúa Giêsu “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền”, quả là một thách đố đối với Phêrô. Ngài đã từng là dân thuyền chài chuyên nghiệp, đã cực nhọc thâu đêm mà không kết quả gì. Ông thực sự nản lòng và toan tính gác lưới. Nhưng Phêrô đã gặp Chúa và đã nghe Lời của Ngài. Theo bản năng tự nhiên, chẳng ai dại gì mà làm điều xuẩn ngốc đến như vậy, vì có cá đâu mà bắt, và đó là dựa vào kinh nghiệm của đời thường. Tuy nhiên, Phêrô đã không hành xử theo khuynh hướng tự nhiên. Ông hoàn toàn quy thuận lời của Chúa. Đây chính là hình ảnh biểu thị thái độ đức tin khi đứng trước những nghịch lý của Lời. Chúa Giêsu đã huấn luyện Phêrô để biến đổi ông trở nên người rao giảng Tin mừng, nhất là chuẩn bị để Phêrô trở thành người chăn dắt ‘chiên con lẫn chiên mẹ của Thầy’. Chúa Giêsu đã giúp Phêrô nhận ra rằng, chỉ khi nào chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa và vâng theo lời chỉ hướng của Ngài, chúng ta mới có thể thành công. Chính kinh nghiệm này đã biến đổi con người Phêrô cách tận căn. Trong Tin mừng Luca, kết quả cuối cùng là Phêrô đã hối hận và bước theo Chúa Giêsu. Còn trong Tin mừng Gioan, Phêrô đã dần dần đi sâu vào cảm thức đức tin để trở thành người lãnh đạo, chăn dắt đoàn chiên của Chúa, Đấng Phục sinh.

Tình yêu, phương thức điều quản Giáo hội

Sau khi kéo cá lên bờ, Thầy trò cùng ngồi với nhau ăn cá nướng. Đây là thời điểm để các Tông đồ, đặc biệt Thánh Phêrô trải nghiệm giây phút quan trọng nhất liên quan đến Giáo hội của Chúa Giêsu. Chúa đã chính thức cắt đặt Phêrô làm thủ lĩnh và làm người cai quản. Chúa huấn luyện đức tin của Phêrô qua mẻ cá lạ thường, và bây giờ Chúa lại đặt ra một điều kiện tối quan trọng cuối cùng để trao quyền bính cho ông: Đó chính là tình yêu. Tình yêu là điều kiện ‘sine qua non’, không có không được. Chúa hỏi Phêrô 3 lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ba lần Chúa Giêsu hỏi và 3 lần Phêrô trả lời, tương thích với 3 lần Phêrô đã chối Chúa vì yếu đuối. Điều đó cho thấy rằng, tội lỗi hay sự yếu đuối của con người sẽ không là gì cả so với sức mạnh của tình yêu và ân sủng. Nếu chúng ta nghiên cứu bản văn theo nguyên ngữ Hy Lạp, chúng ta sẽ thấy Thánh Gioan có một dụng ý sâu xa. Hai lần đầu, Chúa Giêsu hỏi Phêrô về tình yêu với hạn từ ‘agapao’ và Phêrô trả lời với xác quyết: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” với hạn từ ‘phileo’. ‘Agapao’ là yêu mến theo lẽ tự nhiên khi chúng ta biểu tỏ tình cảm đối với người khác. Còn ‘Phileo’ nói về sự tương giao thân tình và thắm thiết giữa 2 người như những người bạn tri kỷ, suốt đời cùng nhau gắn bó.

Trong lần hỏi thứ 3, Chúa thay đổi và dùng từ ngữ ‘phileo’ và Phêrô đã trả lời cũng với hạn từ ấy. Thánh Gioan cho ta thấy, Chúa đã từ từ huấn luyện Phêrô, biến đổi ông, để ông không phải chỉ là người lãnh đạo theo phong thái xã hội bình thường, nhưng biến đổi để ông trở nên một người bạn nghĩa thiết, giúp Phêrô đi dần vào sự kết hiệp thâm sâu với Ngài.

Đó là điều kiện Chúa đặt ra cho Phêrô, cũng như cho các mục tử, những người lãnh đạo đàn chiên mà Chúa trao phó ngày hôm nay.

Trong câu kết của bài Tin mừng, Chúa nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”. Như vậy, để trở nên những con người theo sát gót chân Đức Kitô, trở nên những học trò và môn đệ của Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết tuân theo lời Ngài. Đồng thời Chúa cũng đặt ra điều kiện rất căn bản là phải thực hành tình yêu cách triệt để. Quả thật, tình yêu chính là phương thức để điều quản Giáo hội, không phải chỉ là ngày xưa, nhưng đó là nguyên tắc cho chính chúng ta ngày hôm nay. Nguyên tắc căn bản đó còn phải được áp dụng mãi mãi.

Kết luận

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”. Phêrô đã khẳng khái trả lời trước mặt vị thượng tế. Bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ hôm nay đã thuật lại giai thoại ấy. Phêrô đã vâng lời Đức Giêsu, đã thả lưới xuống bên phải mạn thuyền và phép lạ đã xảy ra. Cũng vậy, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta luôn được mời gọi lắng nghe tiếng Chúa và vâng nghe lời của Chúa. Đây là chìa khóa để giúp chúng ta tăng trưởng trong đời sống đức tin, đức tin đặt để nơi Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, đồng thời đức tin đó dẫn đưa chúng ta đến chân trời rộng mở của tình yêu. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy mau mắn trả lời Chúa Giêsu như Thánh Phêrô năm xưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

 

13. Bữa ăn trên bờ biển

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Cũng như các lần trước, Chúa Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ một cách bất ngờ. Lúc đầu họ chưa nhận ra Ngài. Phải có một lời nói hay một dấu chỉ gì của Chúa có liên hệ với kinh nghiệm trước kia của họ, họ mới giác ngộ và nhận ra sự hiện diện rất thật của Chúa Phục Sinh.

Câu chuyện Tin Mừng kể lại hôm nay rõ ràng gợi lại mẻ lưới lạ lùng trước đó gần ba năm. Cũng một mẻ lưới như vậy, nhờ đó, Chúa Giêsu đã kêu gọi họ: “Hãy theo Thầy, từ nay anh em sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá” (Lc 5,10). Ở đây, mẻ lưới nầy cũng sẽ được gắn với sứ mạng của các tông đồ. Con số 153 con cá bắt được là con số biểu tượng của tất cả mọi thứ cá biến. Và như thế nó muốn nói rằng, lưới của các tông đồ rồi đây sẽ quy tụ toàn thể nhân loại để làm thành một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội.

Thì ra, mẻ lưới thần kỳ nầy là để mở đường cho một giây phút gặp gỡ thân tình giữa Thầy và trò, giữa Đấng Phục Sinh và các tông đồ. Đối với Phêrô và các bạn ông thì đây không phải là gặp Chúa lần đầu. Đã có hai lần trước rồi. Và sau hai lần đó, họ vẫn tiếp tục nghề cũ. Phêrô nói: “Tôi đi lưới cá đây”. Mấy người kia nói: “Thì cùng đi”. Thế là họ lên thuyền ra đi, nhưng suốt đêm hôm ấy họ chẳng bắt được con cá nào! Vất vả mà chẳng được gì! Ngay lúc đó có ai đứng chờ trên bờ biển và cất tiếng gọi. Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã nhận ra trước tiên và mách cho Phêrô: “Chúa đó!”. Rồi, ùm một cái, Phêrô đã lao xuống nước, đi đến với người đang chờ mình, gọi mình.

Sao Chúa lại đơn giản như vậy? Sao Chúa lại lui cui nướng cá, nướng bánh, dọn một bữa điểm tâm cho những người đi làm đêm trở về, như một bà nội trợ lo cho người trong nhà. Rồi thầy trò ngồi bên nhau và chia nhau một bữa ăn thân hữu. Không cần phải hỏi: “Ông là ai?” Vì biết rồi. Thuyền đây, lưới đây, cá đang chín vàng đây, bánh đang còn đây. Và Chúa đây, Người Phục Sinh, Người khơi nguồn sống, Vị Cứu Tinh.

Nhưng, thưa anh chị em,

Điều kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát, thô thiển, mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và các bạn ông, nó coi ra gì. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã mạnh dạn rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu nữa. Các ông ra về mà lòng hớn hở vui mừng vì thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn cứ tiếp tục rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm đe, tù đầy, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”.

Quả thật, có một cái gì đó đã xảy ra. Cái gì? Nguyên nhân nào đã làm cho những người tầm thường đó thay đổi hẳn? Cái gì đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Gặp gỡ âm thầm thôi, chốc lát thôi, nhưng cái tiếp cận bằng mắt, bằng tay, không quan trọng băng sự giao tiếp của cõi lòng, giờ phút cơ duyên làm cho họ hiểu rằng họ đã đi vào, đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ cũng biến thành mới hoàn toàn. Từ đó, họ đinh ninh một điều: “Giêsu, kẻ đã bị sát hại, bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban cho chúng ta ơn hối cải và tha tội”. Vì thế, họ sẽ “vâng phục Thiên Chúa hơn là người ta”. Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, cưỡng bức. Ở tận đáy lòng của họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó.

Anh chị em thân mến,

Giáo Hội ngày nay, nếu muốn tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, nếu muốn phát triển, thì cũng không có con đường nào khác. Giáo Hội của Chúa Phục SInh chỉ có thể phát triển qua những cuộc đời có khi vất vả, tăm tối, có khi tù túng, nhọc nhằn, như các Tông đồ kia. Nhưng cũng như các Tông đồ đã gặp được Chúa Giêsu Phục sinh đang đơn sơ dọn bữa ăn cho họ và mời họ đến ăn chung với Ngài. Do đó,

– Tin Đức Kitô Phục sinh là tin vào sự hiện diện kề cận của Ngài bên chúng ta ngay trong công việc sinh sống, làm ăn vất vả hằng ngày.

– Tin Đức Kitô Phục sinh là tin luôn luôn có cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nỗi đau khổ, thất bại, bị bỏ rơi, đơn độc của chúng ta.

– Tin Đức Kitô Phục sinh là nhận thấy Chúa vẫn luôn tái diễn những việc kỳ diệu, những mẻ lưới đầy cá, những lần hoá bánh ra nhiều trong đời sống chúng ta và trong thế giới, để đáp ứng những nhu cầu ấm no, hạnh phúc cho con người.

– Tin Đức Kitô Phục sinh là đáp lại lời mời gọi của Ngài đến dự bữa ăn huynh đệ mà Ngài đã ân cần dọn sẵn cho chúng ta nơi bàn tiệc Thánh Thể, một bữa ăn hiệp nhất thắm tình Thầy trò xum họp, Cha con đoàn tụ, liên kết mọi người trong một sức sống của Đức Kitô Phục sinh để tiến đến một tương lai vinh quang vĩnh cửu.

Chính niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ. Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn.

 

14. Mẻ lưới của Lòng Thương Xót

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống thường ngày. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui, vui vì Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô Tông Đồ cho chúng ta kinh nghiệm sống động về cuộc gặp gỡ này, ông hân hoan vui mừng cả khi người Do Thái đánh đòn, cấm không được rao tin Chúa Kitô Phục Sinh (x.Cv 5,40b). Vì thế lời Ca nhập lễ bảo ta ca vang: “Cả trái đất, nào tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên, mừng danh thánh rạng ngời, hãy dâng Người lời ca tụng tôn vinh. Hallêluia”.

Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại ; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, này có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (x. Ga 21,4).

Một chi tiết rất hay đáng chúng ta lưu ý là: “Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bời biển” (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và những vòng xoáy của ba thù? Và bờ biển ở đây là gì, hả chẳng tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao ? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: “Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa”. Đó chính là ý nghĩa Chúa muốn nói với các môn đệ sau khi sống lại: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em” (Lc 24,44). Người không nói điều này bởi vì Người không còn ở với họ. Thân xác vĩnh hằng lúc ẩn lúc hiện rất xa vời với thân xác hay chết của các môn đệ. Người nói, Người không còn ở giữa họ nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l’Évangile, no 24)

Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.

Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mê-sia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, không hướng về Thiên Chúa, nhưng lại đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: “Tôi đi đánh cá đây”(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: “Bây giờ họ không có gì khác để làm”.

Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau “khổ đau” của Thánh Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này cho thấy bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới trống rỗng.

Chúng ta cũng vậy, có lúc thấy mình với mẻ lưới trống rỗng. Đi bộ, kiệt sức, trên đường Emmaus của chúng ta, Chúa tiến lại gần để giúp chúng ta thực hiện những bước nhảy vọt về sự khiêm nhường và tin tưởng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Chúa Kitô, họ thả lưới ở “phía bên kia” thuyền. Tại sao lại ‘bên kia ? Bên kia là bên của lòng thương xót của Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của lòng thương xót Chúa. Quả thật, lòng thương xót của Thiên Chúa là rất cần thiết trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy vâng nghe Lời Chúa, tin tưởng làm theo những gì Chúa truyền dạy để xứng đáng được kể là dân của lòng Chúa xót thương.

Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.

 

15. Có Chúa nâng đỡ

Phần lớn các tông đồ đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Hôm được nhiều, hôm được ít và có hôm chẳng được gì. Đó cũng là kinh nghiệm sống vốn thường xảy ra cho chúng ta.

Thực vậy, nhiều khi chúng ta đã suy nghĩ, đã cân nhắc, đã cố gắng hết sức, thế mà vẫn cứ thất bại. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là thái độ của chúng ta trước những thất bại.

Thực vậy, trước những thất bại gặp phải, có những kẻ nản lòng và thối chí, nhưng cũng có những người vẫn kiên trì theo đuổi, vì họ nghĩ rằng:

– Thua keo nay, ta bày keo khác.

– Thất bại là mẹ thành công…

Và sự kiên trì nhiều khi đã xoay ngược tình thế, mà đem lại những thành quả tốt đẹp.

Ông Schmitt, thuở còn là thanh niên, đã bán tất cả gia tài, sang Mỹ tìm vàng. Tìm mãi tìm hoài mà vẫn chẳng thấy. Tiền bạc thì mỗi lúc một cạn, còn đói khổ và cực nhọc thì cứ mỗi ngày một gia tăng. Chịu không nổi, nhiều người đã bỏ cuộc.

Trong khi đó, ông ta vẫn miệt mài tìm kiếm và sau cùng ông đã thấy được những dấu vết của vàng trong lòng một ngọn núi. Ông kêu gọi mỏi người góp vốn, nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Không thất vọng, ông ta tiếp tục làm việc. Sau ba mươi hai năm vất vả, ông đã trở thành một nhà tỷ phú.

Thất bại trong cuộc sống là một sự kiện bình thường, như ca dao Việt Nam đã nói:

– Cơm sôi cả lửa thì khê,

Việc làm hay hỏng, là lề thế gian.

Sự thành công có được một phần do kiên trì chịu đựng và cố gắng:

– Ai ơi giữ chí cho bền,

Dù ai xoay hướng, đổi nghề mặc ai.

Thế nhưng, kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy được một sự thật khác nữa, đó là với sức riêng, khi thì chúng ta thất bại, khi thì chúng ta thành công, Chẳng ai thất bại hoài và cũng chẳng ai thành công mãi. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ thành công dù bên ngoài xem ra như không có thể.

Thực vậy, các tông đồ đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, vâng lời Chúa, các ông đã ra khơi thả lưới, và lập tức đã có được một một mẻ cá lạ lùng. Thất bại đã trở nên thành công, khó hoá thành dễ và không có thể đã biến thành có thể.

Tìm tưởng vào mình đã đành, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, bởi vì như lời Chúa đã phán:

– Không có Thầy, các con không thể làm gì được.

Thánh Phaolô đã xác quyết:

– Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho đâm bông kết trái.

Và người Việt Nam chúng ta cũng thường nói:

– Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.

Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.

Chẳng hạn khi làm ruộng, chúng ta phải dùng mọi phương thế tự nhiên như cày bừa, gieo xạ, xịt thuốc và bón phân…Tuy nhiên, lúa tốt và trúng còn lệ thuộc vào thời tiết, mưa thuận gió hoà. Việc này thì dường như ngoài tầm tay của chúng ta.

Chẳng hạn khi buôn bán, chúng ta phải điều nghiên thị trường, hàng tốt, giá cả phải chăng…Tuy nhiên, nếu gặp phải thời buổi loạn lạc, thì chắc hẳn số người đến mua cũng chẳng bao nhiêu.

Chẳng hạn khi lập gia đình, chúng ta phải tìm hiểu và bàn hỏi… Tuy nhiên, chẳng may sau khi cưới và chung sống với nhau, chúng ta mới thấy người mình yêu không giống với người mình mơ ước vì có quá nhiều khuyết điểm. Lúc đó phải làm sao đây? Hôn nhân không giống như một chiếc áo, vừa thì mặc, không vừa thì bỏ. Nhờ người này người nọ nhắc nhở bảo ban mà vẫn không chuyển biến. Nếu kéo lê cuộc tình như vậy suốt dọc cuộc đời thì qua là một gánh nặng.

Trong trường hợp như thế, vẫn còn có một phương thế đó là tin tưởng và phó thác cho Chúa, vì Ngài có thể làm được mọi sự, như lời thánh vịnh đã xác quyết:

– Ví như Chúa chẳng xây nhà,

Thợ nềvất vả chỉ là uổng công.

Thành trì Chúa chẳng giữ trông,

Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.

Hay như lời thánh Félix de Nole đã nói:

– Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

Và chính Chúa cũng đã phán:

– Đối với Thiên Chúa, không việc gì là không có thể.

Tóm lại, trong mọi việc, chúng ta hãy sử dụng sử dụng hai phương tiện trợ giúp cho nhau, đó là tự nhiên và siêu nhiên, đó là sức mình và ơn Chúa, nhờ đó mới bảo đảm được những thành quả tốt đẹp.

 

16. Con có yêu mến Thầy không? – Lm. John Nguyễn

Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Một câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng không phải ai cũng có đủ can đảm để trả lời một cách dễ dàng như Thánh Phêrô đã thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Một buổi sáng Chủ Nhật, người mẹ bảo người con trai rằng, hôm nay mẹ muốn con chở mẹ đi tham dự Thánh lễ, vì lâu nay anh ta không đến nhà thờ. Trong lúc đang buồn ngủ và mệt mỏi, vì đêm qua anh ta đi chơi về rất khuya. Vả lại, anh ta cũng chẳng tha thiết gì với đạo nghĩa. Trong lúc bực tức vì mất giấc ngủ, anh ta trả lời với người mẹ rằng: “Mẹ đi theo Chúa của mẹ đi. Nếu mẹ có thấy Chúa thì hãy chỉ cho con. Con có thấy Chúa đâu.” Người mẹ đau buồn và lặng lẽ đi. Phải chăng câu nói của chàng thanh niên ấy cũng là câu nói của nhiều người trong chúng ta hôm nay? Chúng ta cũng đang hoài nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa trong thế giới này? Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta hãy trở lại với trang Tin Mừng hôm nay qua biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ tại bờ biển Tibêria.

Sau một đêm dài vất vả mệt nhọc, các Tông đồ đã thất vọng vì không bắt được con cá nào, thì lúc trời rạng sáng, Chúa Giêsu hiện đến với các ông trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết đó là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và được đầy cá. Sau khi các ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ sau khi từ cõi chết sống lại.

Cái Chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu là nền tảng cho đời sống của đức tin chúng ta, vì Ngài chiến thắng sự chết và đã mở ra cho chúng ta con đường hướng đến cuộc sống mới. Chúng ta được tái sinh bởi nước và máu của Ngài. Ngài là Cha yêu thương và tha thứ cho chúng ta ngay cả khi chúng ta là tội nhân. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói trong bài giáo lý về Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin: “Giờ đây, chúng ta xem xét lại ý nghĩa sự phục sinh của Chúa Kitô đối với chúng ta và đối với ơn cứu độ dành cho chúng ta…” Thật vậy, chúng ta đang sống trong niềm vui mừng Chúa phục sinh. Nếu trong lòng của chúng ta không có niềm tin thì cũng trở nên vô ích. Hơn nữa, lòng yêu mến của chúng ta không chỉ dừng lại ở việc giữ các giới răn, mà là sự sống mới với niềm vui Chúa phục sinh. Chúng ta cần thay đổi cách nhìn Thiên Chúa. Niềm tin và hy vọng của chúng ta đặt trên nền tảng chứng thực của các Tông đồ, và niềm tin đó được nuôi dưỡng hằng ngày bằng cách nghe Lời Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực hành các công việc bác ái. Để nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta cần có thái độ cộng tác và cảm nghiệm đức tin qua biến cố trong cuộc đời của chúng ta.

Nếu bạn hỏi: Có thấy Thiên Chúa không? Bạn từ đâu đến? Bạn sẽ đi về đâu? Nếu bạn trả lời thắc mắc này, thì tôi sẽ chỉ cho bạn thấy Thiên Chúa ở đâu. Trong lớp giáo lý, cô giáo hỏi một bé gái: “Con tin có Thiên Chúa không?” – Cô bé mở tròn đôi mắt và trả lời: “Thưa cô, có chứ! Con luôn tin có Thiên Chúa.” – Sao con biết có Thiên Chúa mà tin? – Cô bé vô tư trả lời: “Hãy nhìn bầu trời, cảnh vật núi rừng, biển khơi, thì chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên những thứ đó. Qua đó, con tin có Thiên Chúa.” – “Con chỉ cho cô biết Thiên Chúa của con ở đâu?” – Cô bé tiếp tục trả lời: “Thưa cô, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, không có chỗ nào mà không có Thiên Chúa, và Chúa ở trong tâm hồn của con nữa.”

Với thân phận yếu đuối và giới hạn của con người, chúng ta tìm kiếm Chúa trong đức tin và lòng yêu mến của chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được tái diễn trên bàn thờ. Ngài đang hiện diện và chờ đợi chúng ta đến với Ngài. Ngài là người Cha yêu thương đang mong chờ chúng ta trở về với Ngài. Vì nơi Ngài, chúng ta được sống trong nguồn yêu thương, niềm vui và được đổi mới trong Chúa Phục Sinh.

Lạy Chúa, chúng con luôn yêu mến Ngài vì Ngài là nguồn ơn cứu độ và hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng con. Amen.

 

17. Suy niệm của Lm. GB. Hiếu

NHẬP LỄ

Yêu thương là một hoạt động sâu thẳm trong tâm hồn, nhưng cũng là một động lực thúc đẩy sức sống. Thiên Chúa là Tình Yêu và Người dựng nên con người để con người được chia sẻ tình yêu với Thiên Chúa. Tương quan cuộc sống con người với Thiên Chúa hay con người với nhau, chính là tương quan tình yêu.

– Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con vượt qua được mọi gian khó, để trung thành với Chúa. Xin Chúa thương xót …

– Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con nhận biết Chúa đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Xin Chúa Kitô …

– Lạy Chúa, chỉ có tình yêu / mới giúp chúng con được vào cộng đoàn “chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh và bái phục Chúa đến muôn thuở muôn đời”. Xin Chúa thương xót …

GIẢNG

Người ta nói: Sống với nhau “vì tình vì nghĩa, chẳng ai vì đĩa xôi đầy”, cho nên những ai vì tiền vì của mà bán nghĩa bạn bè, sẽ bị người đời khinh chê sỉ nhục. Vợ chồng sống với nhau được, là nhờ vì tình vì nghĩa. Cha mẹ hy sinh cho con cái, cũng chỉ nhờ vì nghĩa vì tình. Tình càng nồng, nghĩa càng hậu, cách cư xử càng nhân ái, càng trung thực. Điều này đòi buộc chính bản thân con người phải cảm nghiệm.

Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng chỉ vì không có thiện cảm với Chúa, luôn ganh tỵ và sợ hãi Chúa, nên các lính canh đã nhận tiền để xuyên tạc; các thượng tế, kinh sư thì tìm cách che giấu sự thật, bịt mắt bưng tai. Còn các Tông Đồ và môn đệ của Chúa thì bởi vì gặp được Chúa, nên càng xác tín hơn. Họ yêu Thầy, sống chết với Thầy, bởi vì chính bản thân họ đã được cảm nghiệm ở bên cạnh Thầy. Sự thật đã được liên kết trong tình yêu, nên họ không thể xuyên tạc hay làm ngược lại điều chính họ đã sống. Tình yêu đối với Thầy, thúc đẩy họ phải rao giảng về Thầy -cho dù có gặp phải người đời hoặc những kẻ có thế lực chống đối, ngược đãi, đe doạ mạng sống. Ông Phêrô -một con người bộc trực và cũng dễ chao đảo- nhưng sau khi đã cảm nghiệm được Tình Thương Yêu của Chúa, đứng trước hội đồng Dothái giáo đã mạnh dạn phản bác lời cấm đoán của vị thượng tế: “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người phàm” (Cv 5,29). Tình yêu đối với Thầy đã thúc đẩy ông can đảm nói lên cả những điều mà những kẻ có thế lực đang cấm cản ông, điều mà trước đây vì nhát sợ, vì chưa đủ mức độ yêu thương, ông đã 3 lần chối bỏ: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi, nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người chỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm Thủ Lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israen ơn sám hối và ơn tha tội” (5,30-31). Chỉ có Tình Yêu của Chúa và có tình yêu đối với Chúa / mới có thể giúp cho các Tông Đồ can đảm và kiên cường như thế. Cũng chỉ có Tình Yêu của Chúa và có tình yêu đối với Chúa như thế, mới có thể giúp cho Giáo Hội từ thuở sơ khai cho đến ngày hôm nay, vẫn phát triển không ngừng giữa biết bao gian nan thử thách. Thánh Gioan -được mệnh danh là “người môn đệ được Đức Giêsu thương mến” (Ga 21,7)- nhờ tấm lòng yêu quý dành cho Thầy sâu đậm hơn những anh em khác, nên sớm nhận ra Chúa trên bãi biển hơn những Tông Đồ khác.

Như thế, tình yêu đóng vai trò rất quan trọng trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, cho nên sau ngày sống lại, Chúa Giêsu đã muốn đặt tiêu chuẩn để trao trách nhiệm cho Thánh Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” (21,15). Chúa Giêsu hỏi tới 3 lần, để Thánh Phêrô xác định tình yêu tuyệt đối của mình nơi Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy” (21,17).

Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống chúng ta, nhưng chỉ có tình yêu mới giúp chúng ta nhận ra được Chúa. Nhờ Tình Yêu của Chúa và nhờ tình yêu của chúng ta đối với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm, sáng suốt để trung thành với Chúa vượt qua những gian truân, đau khổ, thử thách của cuộc đời cho đến cùng. Xin Chúa Thánh Thần đã cho Đức Giêsu Kitô phục sinh, giúp chúng con phục sinh tình yêu của chúng con đối với Chúa.

 

18. Suy niệm của Lm. Vinh sơn Nguyễn Thành Trung

Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện như một người bạn

Mặc dầu trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu phục sinh là Đấng đầy tràn vinh quang, tuy nhiên đối với Giáo hội trên trần gian, Người lại muốn hiện diện một cách khác: Người muốn tỏ ra là một người bạn rất gần gũi với tất cả mọi người.

Với ý hướng này, chúng ta hãy dừng lại những chi tiết thật đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay, để nhận ra sự hiện diện rất gần gũi thân thương của Đấng Phục Sinh.

Các Tông đồ đã đánh cá suốt đêm trên biển hồ Tibêria mà không bắt được con cá nào cả. Khi Đức Giêsu hiện đến, Ngài thăm hỏi như một người bạn có sự quan tâm và khi thấy họ gặp khó khăn, Ngài đã giúp họ vượt qua. Ngài rất gần gũi: “ Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21, 5b). Hay có thể diễn giải: Thầy đói rồi, có cái gì cho Thầy ăn không?

Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dọc theo Tin Mừng ta cũng đã bắt gặp thái độ này của Chúa Giêsu khi Ngài hiện ra với bà Maria Mađalêna. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn thần thái đó, vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một khách hành hương và đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy ?” (Lc 24, 17).

Chúng ta lại thấy một chi tiết rất thân tình và đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay. Ngài hiện đến như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các tông đồ gặp thất bại: “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” ( Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”( Ga 21, 6a)

Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của chúng ta, khi chúng ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp chúng ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính chúng ta không tài nào thoát ra được.

Noi gương các tông đồ, chúng ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).

Xin Chúa Kitô Phục Sinh luôn ban Thánh Thần cho chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện rất thân tình của Ngài. Ngài luôn mang đến sự bình an và hạnh phúc thật. Bên cạnh đó, xin cho chúng ta có lòng nhiệt thành, hăng say đem tình thương của Chúa chia sẻ cho người khác, để họ cũng nhận ra được sự hiện diện của Chúa qua những cử chỉ thật dễ thương của chúng ta.

Chúng ta hãy để Chúa Phục Sinh luôn là người bạn thân của chúng ta và chúng ta cũng hãy là người bạn thân của tất cả những ai mà chúng ta đang gặp gỡ và sẽ gặp gỡ trong cuộc đời của mình.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến và đang ở thật gần bên chúng con. Lạy Đấng Phục Sinh, xin ở mãi với chúng con, xin đừng rời xa chúng con vì chúng con luôn cần Ngài. Al-lê-lu-ia.

 

19. Vâng lời – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Vâng lời là một trong ba lời khấn trong nghi thức khấn dòng: Khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời. Vâng lời là bỏ ý riêng mình, vâng theo ý Chúa qua sự vâng phục ý của bề trên. Vâng lời đòi hỏi sự khiêm nhu đích thực. Thơ gởi tín hữu Do-thái đã diễn tả về Chúa Giêsu:Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục (Dt 5, 8). Chúa đã nêu gương vâng phục thánh ý Chúa Cha. Sau khi các tông đồ đã được diện kiến và chia sẻ ăn uống với Chúa Kitô phục sinh, các Ngài đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng. Các tông đồ là những nhân chứng sống động và can đảm nhất. Các Ngài đã đối diện với nhiều quyền lực cả thần quyền lẫn thế quyền. Người ta hăm dọa và cấm cản các tông đồ. Bấy giờ ông Phêrô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm (Tđcv 5, 29). Một chọn lựa tuyệt đối. Các tông đồ đã chọn Chúa, vâng lời Thiên Chúa. Sự chọn lựa này có thể đưa đến sự giam tù, đầy ải khổ đau và chết chóc.

Những sự kiện mới xảy ra hôm nào: Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy (Tđcv 5, 30). Tin tức còn nóng hổi. Các nhân chứng còn đang hiện diện đầy phấn khởi. Tân hồn của các Tông đồ sôi xục niềm tin. Các ông ra đi rao giảng tin vui cho mọi người. Chẳng chút sợ hãi từ nan. Lòng nhiệt thành của các Tông đồ làm cho các nhà chức trách lo ngại. Nhưng dù có cấm cản và đe dọa, các Tông đồ vẫn một lòng trung kiên: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người.”(Tđcv 5, 32). Các nhân chứng vâng theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Niềm tin và lòng trung tín của các Tông đồ là những hạt giống gieo mầm đức tin cho các thế hệ và cho mỗi người chúng ta. Đức tin của chúng ta cậy dựa vào những lời chứng của các tông đồ xưa.

Tâm hồn của các tông đồ hân hoan và vui mừng cho dù khổ đau trăm bề. Chứng nhân cho sự thật đồng nghĩa với sự khổ nhục vì danh Chúa Kitô. Chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Người đời không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của các nhân chứng sự thật. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu (Tđcv 5, 41). Chịu tù đầy, đánh đòn và giam giữ trở nên nguồn sinh lực hân hoan cho các tông đồ. Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều chứng nhân dám xả thân mang tin mừng cứu độ đến mọi người khắp mọi nơi. Đã có những vị tử đạo bỏ mình nơi vùng hoang sơ của những bộ lạc sống sơ khai man rợ. Tinh thần lạc quan và nhiệt tình của các nhà truyền giáo đã giúp họ xông pha trên mọi nẻo đường dù gian khó. Qua các Ngài, hôm nay chúng ta được thừa hưởng kho tàng mầm sống đức tin.

Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu đã được gieo mầm đức tin và được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô. Cả cuộc đời của chúng ta đã bỏ vốn đầu tư trong một niềm tin. Chúng ta đã cống hiến nhiều thời gian, sức lực, khả năng, của cải và cả đời sống nơi Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta đã đặt trọn niềm tin, niềm hy vọng và tình yêu vào Đấng trung gian của vũ trụ. Chúng ta đã chọn Chúa Giêsu Kitô là trung tâm điểm của đời sống tâm linh. Chúng ta đã hy sinh, hãm mình, thi hành bác ái và tuân giữ giới răn của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta đang trông chờ điều gì? Đó chính là sự sống lại và sự sống hạnh phúc ngày sau. Chúng ta biết rằng con đường lên thiên đàng là thiên đàng. Vâng theo thánh ý Chúa trong cuộc lữ hành trần thế là chúng ta đang dõi theo con đường hướng thượng.

Hằng ngày chúng ta vác thánh giá đi theo Chúa. Theo Chúa là theo con đường đi lên, con đường an vui hạnh phúc, con đường ngược dòng và cả con đường khổ giá. Chúng ta đã đầu tư biết bao nhiêu công sức để học hỏi, tìm hiểu và sống niềm tin của mình qua năm tháng. Đừng để niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng, mê tín, hình thức và trình diễn bên ngoài. Chúng ta hãy chìm sâu vào cốt lõi của niềm tin. Tinh thần vâng phục sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Biết tìm từ bỏ ý riêng và chấp nhận ý Chúa. Vâng phục không phải là đánh mất mình nhưng là chia sẻ một cuộc sống hài hòa trong yêu thương bác ái. Vâng lời trọng hơn của lễ là thế. Chúng ta biết trăm người trăm ý, nên cần có những quyết định và ý kiến chung để thi hành. Tuy rằng không có ý nào là tuyệt đối nhưng có đa số quyết định. Giáo hội là Nước Trời tại thế nhưng giáo hội cũng là tổ chức xã hội, cần có sự nhất trí để dẫn dắt mọi tín hữu đi trong đường lối Chúa. Chúng ta cũng biết sự vâng phục sẽ nhẹ nhàng hơn đôi chút khi có sự đối thoại và thông cảm. Hãy sống niềm tin đích thực trong mọi trạng huống ở đời.

Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần và nhiều cách với nhiều người. Đôi khi các tông đồ cũng chẳng nhận ra Chúa. Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu (Ga 21, 4). Chúa đến với các tông đồ khi Chúa muốn.Chúa cho ai ân sủng, người đó lãnh nhận. Chúng ta không nên phân bì, so sánh hay ganh tị. Ân sủng là qùa tặng nhưng không. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu lại yêu cầu các tông đồ làm một việc có vẻ như thách thức tinh thần vâng phục. Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá (Ga 21, 6). Vâng lời Thầy, con thả lưới. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp đã cật lực thâu đêm mà chẳng bắt được gì. Vâng lời Thầy, các ông đã kéo được mẻ cá to. Sự vâng phục đã mang lại niềm vui và thành qủa to lớn.

Chúa Giêsu là Chúa và là Thầy. Chúa vẫn dùng những cử chỉ thân thương gần gũi để chia sẻ cuộc sống với các tông đồ:Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy (Ga 21, 13). Bánh và cá đã trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa. Trên sườn núi Chúa cũng đã biến hóa bánh và cá hai lần để nuôi dân con số trên cả mấy ngàn người. Chúa quan tâm sự vất vả, mệt nhọc và đói khổ của dân chúng. Sự hiện diện của Chúa mang lại niềm an vui, no thỏa và ủi an. Chúng ta tín thác vào lòng thương xót của Chúa moi nơi mọi lúc. Nếu chúng ta có Chúa hiện diện là có sự bình an, có niềm vui hoan lạc và hy vọng. Hãy kết hợp thường xuyên với Chúa Giêsu, tâm hồn chúng ta sẽ được an nghỉ: Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28).

Sách Khải Huyền của thánh Gioan mở ra cho chúng ta một viễn tượng tuyệt vời nơi đất mới trời mới: Tôi thấy và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu (Kh 5, 11). Đây làthực tại của niềm tin. Tất cả niềm hy vọng của chúng ta đặt vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta hy vọng sẽ cùng chung hưởng một cõi sống vĩnh hằng. Những đau khổ của chúng ta hôm nay, chẳng là gì so với vinh quang bất diệt mà chúng ta sẽ được dự phần. Thánh Gioan diễn tả: Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời! “(Kh 5, 13).

Lạy Chúa, chúng con cứ mải mê tìm kiếm những của cải và thú vui thế sự để thỏa mãn những nhu cầu vật chất. Xin cho chúng con biết nhìn lên, hướng thượng và chiêm ngắm vinh quang mà Chúa đang dành sẵn cho chúng con. Xin cho chúng con cùng được thông phần hạnh phúc với các thánh trong Nước Trời. Amen.

 

20. Hiện ra

Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của Giáo Hội. Cộng đoàn là những kẻ tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế.

Vận mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Ơn cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người là sự dấn thân của con người dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa, cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giao hoàcon người với Thiên Chúa và với nhau.

Nơi bài đọc 1 trích từ sách Tông đồ Công vụ giúp chúng ta nhìn thấy thái độ mà các tông đồ phải đấu tranh, bị những người lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, bị những người lãnh đạo Do thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng về Chúa Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa.

Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”. Thiên Chúa Cha đã cho Chúa Kitô sống lại, Đấng mà các ông đã giết chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài, làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế để ban cho dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi: “Về tất cả điều này chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng”.

Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên thái độ can đảm này. Thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Kitô và cho sự thật cứu rỗi của Ngài: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”.

Đọc và suy nghĩ về lời tuyên bố này của thánh Phêrô trong hoàn cảnh mà thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó phải trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những người lãnh đạo dân Do thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền mà lạm dụng quyền hành của họ để xen mình vào việc tôn giáo thì các tông đồ đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo.

Khi các vị lãnh đạo lạm dụng quyền của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ, bắt buộc các ngài phải chọn một trong hai thái độ là theo Chúa Kitô hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do thái thì chính lúc đó thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Kitô Phục sinh, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.

Đây là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo, chứ không phải là một lời kêu gọi con người nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi, của những sự xấu, của những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau thì các tông đồ đã chọn sự tự do ấy, đó là việc rao giảng Tin Mừng giải phóng cho con người. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói theo kiểu nói ngày nay được hưởng sự tự do như đang được thì các ngài đâu cần phải xác nhận phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế Thiên Chúa được.

Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này làm sao chúng ta có thể nói là mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Thiên Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội để sống đúng địa vị con người, sống như là con cái Thiên Chúa và như là anh chị em với nhau. Ai trong chúng ta không cần được sự nâng đỡ để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa và cuối cùng qua 20, 30 năm hay 100 đi nữa thì cũng sẽ phải trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.

Thái độ các tông đồ được trình bày trong bài đọc 1 của bài đọc hôm nay đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần không phải tự sức riêng các tông đồ, nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần làm chứng cho ơn Chúa, nhưng con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?

Bài Phúc âm hôm nay kể lại biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống hằng ngày, trở về với nghề chài lưới. Nhưng Chúa đến để kêu gọi họ trở về với ơn gọi tông đồ, đồng thời Ngài củng cố đức tin cho các tông đồ.

Điều gì đã xảy ra cho các ngài? Từ đó Chúa đến củng cố các ngài nhờ một phép lạ và một bữa ăn; bữa ăn bổ sức trong tinh thần. Ước gì chúng ta cũng được củng cố như vậy trong Bí tích Thánh Thể, để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa, chứng nhân hữu hiệu trong mọi hoàn cảnh và cho mọi người ở khắp mọi nơi.

 

21. Niềm vui Phục Sinh – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Theo một số các nhà chú giải, chương cuối cùng trong Tin Mừng thứ tư là phần bổ túc từ một bàn tay khéo léo nào đó trong các môn đệ của Thánh Gioan. Bởi vì không lý nào với những lời từ biệt kết thúc ở chương 20- “Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ danh Ngài” (Ga 20:31)-rồi sau đó vị thánh sử lại từ biệt thêm một lần nữa- “Còn lắm điều khác, Đức Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều thì thiết tưởng thế gian không đủ chỗ mà chứa sách viết ra (Ga 21:25).

Tác giả của chương cuối này trình thuật câu chuyện các môn đệ Đức Giêsu đang lâm cảnh “rắn mất đầu”. Còn chừng bảy người đang ở với nhau. Sau hôm Thầy chết, họ trở nên buồn phiền, chán nản. Bao nhiêu kỳ vọng đã tan thành mây khói. Nhớ lại quá khứ: bỏ hết tất cả rồi! Nhìn vào tương lai: băn khoăn chẳng có chi. Rồi đây biết tựa vào ai? Đi đâu? Làm gì? Bao câu hỏi chờn vờn tâm trí các ông. Tuy ngắn nhưng sao mông lung mịt mờ.

Nhiều người đã rời Giêrusalem trở về quê cũ. Lòng kẻ ở lại trĩu nặng ê chề. Chẳng ai buồn nói chuyện. Trong bầu khí tang tóc u trầm đó, một quyết định vang lên: “Tôi đi đánh cá.” Phêrô đã thốt lên câu nói đó.

Đi đánh cá là trở lại với nghề xưa-thực tập và tìm lại những gì mà một thời mình đã bỏ hết để theo Đức Giêsu. Đi đánh cá là để gợi nhớ kỷ niệm lần gặp gỡ đầu tiên với Thầy nơi biển hồ. Dường như Phêrô muốn níu lại một thoáng bóng hình đang tan biến.

Thế rồi ông được anh em phụ hoạ: “Chúng tôi cùng đi với ông.” Tất cả cùng lên thuyền ra khơi. Đêm đen mịt mù như lòng của họ. Gió lạnh, sương rơi, sóng trào, cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Nhưng đâu còn gì hơn nữa ngoài việc cật lực tung lưới kiếm cho được ít cá để sống qua ngày.

Thế nhưng, dù vất vả đánh vật với sóng gió của biển khơi, “đêm ấy họ vẫn không bắt được gì” (Gn 21:3). Hoá ra, dù có phương tiện đánh cá trong tay, dù đã hăng hái nhất trí cùng nhau, và dù hao công tổn sức cách mấy, nhưng nếu không có Đức Kitô Phục sinh, chắc hẳn kết quả chỉ là một nỗi thất bại ê chề. Song, một khi có Chúa hiện đến, thăm hỏi, hướng dẫn, lúc đó người ta mới thu được kết quả phi thường.

Phải chăng không ít hội đoàn hay tổ chức cũng từng có cùng kinh nghiệm như các người môn đệ: cũng hăng hái, đồng tâm, cũng đầy đủ phương tiện tiến bước, nhưng sao “ra khơi” nhiều lần mà kết quả thu được chẳng là bao. Có phải vì vẫn còn thiếu vắng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh? Hay vì người ta, như các tông đồ theo Đức Kitô trước Phục sinh, còn tranh chấp ghế ngồi “bên hữu bên tả”, và còn trốn chạy cả khi đối mặt với một cô… “đầy tớ”?

Kết quả của lần kéo lưới thứ hai, sau lời hướng dẫn của người-lạ trên bờ, là một mẻ cá đầy ắp. Diễn tiến tiếp theo là việc các môn đệ nhận ra người-lạ đó: “Không ai trong các ông dám hỏi: Ngài là ai, bởi mọi người đều biết là Chúa” (Ga 21:12).

Cuộc tao ngộ Thầy trò bên hồ Tibêria được đúc kết bằng việc Đức Giêsu trao ban năng quyền dẫn dắt Giáo hội cho Phêrô. Khởi đầu mỗi lần trao năng quyền là một câu vấn đáp về lòng mến yêu: “Simon, con của Gioan, ngươi có yêu mến Ta không?”

Căn cứ vào mạch văn thì hẳn đây là lần đầu tiên Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, những người đã không yên ủi Chúa được một lời lúc Ngài chịu đau khổ đến rướm máu trong vườn Cây Dầu. Họ cũng đã bỏ Chúa chạy lấy thân khi gặp quân lính hung ác. Thậm chí còn chối Ngài lúc gặp thử thách gian nan. Thế nhưng, đứng trước những con người lỡ lầm và đầy thiếu xót đó, Đức Giêsu không hề nhắc lại quá khứ nhát hèn của họ. Ngài chẳng hỏi: “Các ngươi trốn nơi đâu?” cũng không hề trách: “Này anh Phêrô, Tôma, Giacôbê, các anh có cảm thấy xấu hổ khi bỏ Thầy và chối Thầy không?”

Trong câu hỏi của Đức Giêsu không thấy nhắc gì đến quá khứ, cũng chẳng có giận hờn trách móc hoặc ngăm đe, nhưng chỉ là hiền từ, yêu thương và trao phó. Điều kỳ lạ là khi ký thác đàn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu lại muốn vị đại diện phải có lòng yêu mến Ngài, thậm chí còn phải yêu Ngài hơn những người khác (Gn 21:15). Thế ra không yêu mến Chúa sẽ chẳng ai có thể làm trọn trách vụ chăn chiên. Không thương Chúa hơn tất cả, người ta sẽ chẳng bao giờ nên người chăn chiên đích thực. Có chăng chỉ là hạng chăn thuê, thấy sói đến là để đàn chiên tan tác.

Chúa gặp lại các môn đệ trong bầu khí yêu thương quảng đại. Không hề có chuyện nhắc đến lỗi lầm của họ. Quá khứ đầy thiếu xót phải nhường cho hiện tại giàu thương yêu. Nhắc nhở lỗi lầm ngày xưa chỉ tạo nên rạn nứt phân ly hôm nay. Tha thứ và khoả lấp bằng lòng khoan dung nhân ái sẽ tăng sức mạnh dâng hiến trao ban tràn đầy. Đây chính là bài học quí báu cho mọi cộng đoàn và gia đình.

Trong yêu thương có tha thứ. Khi tha thứ người ta chấp nhận bỏ mình, ngang qua sự chết. Với hành trình như thế yêu thương sẽ đạt đến cao điểm của phục sinh. Bước theo Đức Kitô Phục sinh là cùng chung hành trình với Ngài. Trong đó có hy sinh, vị tha. Trong đó có thái độ chấp nhận các thói hư tật xấu và những dị biệt của tha nhân với một thiện ý và một lòng mến thương thật sự. Và nhất là trong đó có niềm vui phục sinh sau lúc đã ngang qua sự chết.

 

22. Sống lại

Đặc biệt tôi rất vui mừng khi thấy có rất nhiều anh chị em mà tôi xin được phép gọi là các bạn trẻ đang hiện diện trong ngôi thánh đường này.

Có một sự thật – thật đến nỗi đã có nhiều người không dám tin là có thật: Đó là sự kiện Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại hiển vinh. Đây chính là trọng tâm, là cốt lõi, là nền tảng của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô còn xác quyết: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì điều anh em tin thật là hão huyền… và chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trên trần gian này”.

Tất cả chúng ta vừa trịnh trọng lắng nghe thánh Gioan tông đồ thuật lại việc Đức Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra với các tông đồ tại biển hồ Tibêria. Đây không phải là một cuộc thoáng hiện của Đức Giêsu, nhưng Ngài còn ngồi lại, cùng dùng bữa thân mật với các ông nữa. Chính trong khung cảnh lãng mạn đó, Đức Giêsu đã đặc biệt ngỏ lời, đã tỏ tình với Phêrô: “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?… Phêrô, con có yêu mến Thầy nhất không, hơn các người này không?”

Nghe đến đây, tôi và các bạn có lẽ đã tức điên lên và tự nhủ: Chúa Giêsu ơi! Sao Chúa dại quá vậy? Chúa hết người để yêu rồi hay sao mà lại đi yêu và yêu đến cuồng si Phêrô, kẻ đã từng phản bội – kẻ đã từng chối Chúa, xử quê Chúa trước mặt công chúng, Chúa có còn nhớ hay không?

Thánh Têrêsa thành Avila từng trách Đức Giêsu đã quá yêu con người đến điên dại, kể cũng không quá đáng. Phêrô là con người thế nào? Chúng ta đã quá rõ: Một tên ngư phủ quê mùa, tính tình thì nóng nảy, thuộc “tuýp bốc”, hay làm tàng, ta đây… được Đức Giêsu thương nhận làm đệ tử, cho ngồi đồng bàn, chia sẻ vui buồn, dạy dỗ đủ điều… lại còn được mời gọi trao ban sứ vụ tông đồ cao cả… Thế mà, khi có sự cố, hàn vi, biến loạn xảy đến lại chối Thầy bỏ bạn. Con người đó hỏi thử có gì đáng để Đức Giêsu yêu thương đến thế?

Đúng ra, trong số các tông đồ, nếu Đức Giêsu có muốn yêu thì Gioan là xứng đáng hơn cả, hay là Natanaen – một con người không có gì là gian dối, (như Đức Giêsu đã từng khen).

Ngẫm nghĩ: tình yêu thật khó hiểu! Con tim của Đức Giêsu có những lý do riêng mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tôi thường nghe Hồng Nhung hát bài “vẫn mãi hát lời tình yêu”của Dương Thụ. Nhưng thực sự giờ đây tôi mới hiểu và dám quả quyết: chỉ có Đức Giêsu mới thật sự là người vẫn mãi hát lời tình yêu mà thôi. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu thật có lý khi xác tín rằng: “Bạn đừng sợ Chúa, Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”

Con người Phêrô cộc cằn và đáng ghét đó. Đúng ra nên dành một dấu chấm hết cho xong chuyện. Thế nhưng, Phêrô lại được Đức Giêsu yêu thương một cách đặc biệt và chính tình yêu Giêsu đã cảm hoá được Phêrô cách lạ lùng. Con người bất trị đó cuối cùng đã phải thốt lên: “Thầy biết mọi sự mà, Thầy biết con yêu mến Thầy mà!”Đúng là “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Một lần bị nguyền rủa là Satan, ba lần chối Chúa – chán nản, bỏ cuộc, về hưu đánh cá, coi như lòng đã chết. Giờ đây lại chỗi dậy bằng ba lần cam kết yêu thương.

Điều gì đã làm Phêrô biến đổi như vậy? Phải chăng Phêrô đã ân hận vì quá khứ nhiều xót xa? Hay choáng ngợp vì mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không rách?

Đó cũng chưa là lý do đầy đủ để thuyết phục và chinh phục Phêrô. Nguyên nhân sâu xa nhất là Phêrô đã khám phá và xác tín vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô. Bằng chứng là suốt quãng đời còn lại của Phêrô đã không ngừng rao giảng và hầu như chỉ rao giảng và làm chứng về Đức Kitô Phục sinh – Đấng đã dùng tình yêu để cảm hoá Phêrô.

Tình yêu của Đức Giêsu thật sự có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai, nếu người ta biết đặt niềm tin vào Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội nhân và khép lại quá khứ để trở thành thánh nhân. Sống giữa cuộc đời ô trọc – thị phi – hư danh – chóng qua này; tình yêu Giêsu là một lý do cuối cùng để con người hôm nay hy vọng.

Khám phá và tin vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô là điều không dễ. Chúng ta dù vẫn biết rằng: Đức tin là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, nhưng từ Tin đến Yêu và yêu tha thiết, yêu say đắm như Phêrô lại là cả một quá trình cảm hoá từng bước, ngày qua ngày trong cuộc sống. Đức Kitô đã đi vào lịch sử, đã chấp nhận lịch sử và không bị lịch sử giới hạn bằng chính sự thật Phục sinh của Ngài. Với thời gian, mãnh lực cảm hoá của tình yêu Giêsu sẽ được chúng ta kiểm chứng cảm nghiệm giống như ly rượu đào uống dần – thấm lâu – say mãi. Để một khi đã yêu thật sự, chúng ta sẽ không còn hờ hững nữa; nhưng trái lại là một sự lựa chọn, dấn thân và hiến thân trọn vẹn cho tình yêu Giêsu đó.

Ngày nay, trước xu hướng của tình yêu “thời mở cửa”, mọi cái đều phải quảng cáo, tranh thủ, tốc độ, chộp giật… Tình yêu cũng dễ dàng bị nhuốm màu kinh doanh đó. Vả lại, từ tình yêu lãng mạn của “khung trời đại học”đến thứ tình yêu thực tế phũ phàng được cân, đo, đong, đếm bằng “cơm-áo-gạo-tiền”. Người trẻ chúng ta dù muốn dù không cũng có ít nhiều ngờ vực, nghi nan khi bước vào ngưỡng cửa của tình yêu, mà trước đó người ta dễ dàng đã thấy quảng cáo, tiếp thị, bầy bán với hàng trăm thứ quan niệm lệch lạc về tình yêu nơi các cửa hàng giả hiệu, bất chấp đúng sai, miễn sao có lời.

Chẳng hạn, có một số bạn trẻ cho rằng tình yêu là “thứ trời cho”nên họ sẵn sàng biến thành thú “trò chơi”. Một số khác lại thực tế hơn đi tìm và xây tổ trước khi có tình yêu, bạn đời họ cần phải là “nhà mặt phố, bố làm to”. Ngoài ra, còn có kiểu “tình hờ”, “tình cờ”, “tình cho không biếu không”… kết cuộc lối chịu chơi đó biến cuộc đời của những chàng trai, cô gái thành những trái táo thối chín non, rẻ mạt!

Gút lại, những kiểu tình yêu phát xuất từ những xu hướng lệch lạc thời mở cửa này, thực chất có mang lại tình yêu và hạnh phúc đúng nghĩa thật sự cho người trẻ hôm nay hay không? Chúng ta hiểu: trong tình yêu luôn có muôn vàn sắc thái, mùi vị, ngọt, bùi, đắng cay… Tuy nhiên nếu tình yêu không bắt đầu bằng sự rung động của con tim và cần có thời gian để cảm hoá, thanh luyện cho thật tinh ròng, là thứ quí hơn vàng, thì chắc chắn bạn sẽ không bao giờ nếm được hương vị ngọt ngào do tình yêu mang lại. Trong tình yêu, ngay cả niềm tin cũng không được lạm dụng; chọn lựa phải chắc chắn, dấn thân triệt để. Có như vậy việc hiến thân cho nhau mới trọn vẹn và đến cùng. Thách đố lớn nhất của thời đại hôm nay, của tình yêu hôm nay: lòng trung thành.

Các bạn đang nghĩ gì và làm gì để xây dựng đời sống “văn minh tình yêu”cho chính mình và người khác? Trước ngưỡng cửa nửa tối – nửa sáng của cuộc đời bạn đang tin tưởng hay chối từ, nghi nan? Chắc chắn chúng ta cần phải có một thần tượng, một lý tưởng để theo đuổi và can đảm bước tới trong hy vọng: tình yêu Giêsu thật sự là lý do cuối cùng, là khuôn mẫu đích thực cho chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi.

Dốc hết vốn liếng đức tin ra, chúng ta cần xác tín một điều: “Thiên Chúa chỉ có biết yêu mà thôi”. Và đối với tình yêu Giêsu thì chỉ một lần được sống lại, sẽ không bao giờ chết nữa.

 

23. Làm chứng

Trong một buổi toạ đàm về lễ Phục sinh, có một thanh niên tên là Lim, không tin Đức Kitô Phục sinh. Anh nói: “Tin tôi đi, các bạn, chẳng có Đức Kitô nào sống lại hết. Đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng mà thôi, tranh cãi làm gì mất công, phí thời giờ, các bạn sẽ thấy ngay bây giờ, tôi cho Đức Kitô hai phút, nếu có Ngài thì Ngài cứ việc đánh tôi chết”. Nói xong anh ưỡn ngực chờ đợi. Hai phút trôi qua, chẳng có gì xảy ra. Lim đắc thắng nói: “Đó, các bạn thấy rõ rồi nhé, Đức Kitô có đâu nào?”. Mọi người đều im lặng.

Một lúc sau, có một người lên tiếng: “Anh Lim này, tôi là một người cha. Tôi có một đứa con trai, có lẽ bằng tuổi anh. Giả như bây giờ nó có mặt ở đây và nó cầm dao đưa cho tôi rồi nói: “Tôi không chắc ông có phải là cha tôi thật không, người ta nói sao thì tôi biết vậy thôi. Họ bảo ông là cha tôi, nếu thực sự đúng như vậy, thì sao đây, ông hãy cầm lấy và đâm tôi đi, nếu không, chính tôi sẽ đâm ông”. Anh nghĩ coi: tôi phải xử trí thế nào? Thú thật tôi không đủ khả năng cho nó thấy tôi là cha nó theo cách nó đòi hỏi. Nhưng có phải từ sự kiện tôi không dám đâm chết nó mà anh có thể kết luận: tôi không thực sự là cha nó không? Vì thương nó nên tôi không đâm chết nó. Là cha nó, tôi thà để mình bị đâm chết hơn là cầm dao đâm chết con. Chết vì tay nó, tôi chứng tỏ cho nó thấy tôi chính là cha nó. Nó đòi hỏi, nhưng tôi không làm theo cách nó mong muốn, mặc dầu tôi có thể đâm nó chết. Anh Lim này, anh hiểu điều tôi vừa nói chứ? Anh cũng vừa phỉ báng Thiên Chúa như thế đấy, nếu Đức Kitô không đánh chết anh, thì không phải là vì không có Ngài, mà vì Ngài thương anh đó thôi. Bởi vì trong tình yêu bao giờ cũng có một yếu điểm nghịch thường mà người ta không thể diễn tả hết được”.

Người ấy nói tiếp: “Anh nghĩ xem, giả như anh nắm tay đấm vào đá thì tay anh sẽ bị đau chứ không phải là đá. Đá phản ứng lại cử chỉ kiêu căng của anh một cách mãnh liệt. Nhưng nếu anh đấm xuống nước, tay anh không hề hấn gì, nước chỉ dao động một chút rồi thôi. Và nếu anh đấm vào không khí chúng ta đang thở, anh sẽ chẳng cảm thấy gì hết. Không khí có vẻ bất lực ấy lại cần cho đời sống của chúng ta hơn là đá cứng nhiều. Cũng thế, Thiên Chúa trở nên như yếu đuối và như vô hình giữa chúng ta. Giả như chúng ta có chửi bới Ngài, Ngài chẳng bợp tai chúng ta, trong khi nếu chúng ta làm thế với bất kỳ ai khác, chúng ta sẽ lãnh đủ. Thiên Chúa trở nên yếu đuối và bất lực, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cần đến Ngài hơn bất cứ điều gì khác. Anh Lim này, Đức Kitô yêu anh lắm, anh cũng phải yêu lại Ngài nhé. Anh hãy tin Ngài và sống đạo tốt hơn anh sẽ cảm thấy điều tôi nói là chân thật”. Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng ta, và chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin cũng như tuyên xưng đức tin. Đức tin ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Đức tin ấy như một đèn sáng hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Nguyên việc chúng ta có mặt trong nhà thờ lúc này là một bằng chứng cụ thể rõ ràng. Và chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Phục sinh. Mỗi Chúa nhật là một lễ Phục sinh. Việc Đức Kitô Phục sinh là một thực tại chắc chắn. Điều đó các tông đồ không cần phải tin, vì đích thân các ông đã được cảm nghiệm: đã thấy Chúa, đã nghe tiếng Chúa rõ ràng, đã thấy những việc quen thuộc Chúa thường làm, đích thực 100% Chúa đã sống lại. Còn chúng ta, chúng ta tin, vì chúng ta không thấy. Dù không thấy, chúng ta vẫn tin một cách tuyệt đối. Chúng ta đi đạo, theo đạo, giữ đạo, tin đạo, tức là chúng ta tin Đức Kitô đã Phục sinh. Chúng ta tin Chúa sống giữa chúng ta và đang điều khiển vũ trụ này. Một trong những điều đòi hỏi chúng ta thể hiện đức tin, cũng là điều ghi lại trong bài Tin Mừng, đó là các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không được gì. Lúc ra về, họ đành thú nhận tay trắng, công dã tràng. Đó là sự giới hạn của họ và cũng là bài học cho tất cả chúng ta. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Nếu con người chúng ta cứ thành công mãi như ý mình, chúng ta sẽ tưởng mình là vô địch, mình có thể làm được mọi sự mà không cần đến Chúa. Nhưng rất may, ở trần gian này có một định luật là sự giới hạn: giới hạn của vật chất chung quanh chúng ta, giới hạn của khả năng con người, giới hạn của chính đời sống chúng ta… Không ai trong chúng ta có thể sống vượt ra ngoài những giới hạn đó.

Cho nên, chúng ta tin Chúa là chúng ta nhận biết thế đứng của mình trước Thiên Chúa, biết sự giới hạn của mình trước Đấng toàn năng đã phán: “Không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Vì thế, trong mọi hoạt động của đời sống, chúng ta phải cầu xin Chúa thực thi chương trình của Ngài nơi mỗi người chúng ta và xin cho chúng ta biết thân phận mình, biết sự giới hạn của mình, để chúng ta luôn tin tưởng và cậy dựa vào Chúa.

Một điều nữa chúng ta cũng cần ghi nhớ: các tông đồ tin Chúa sống lại, các ông không giữ lại niềm tin đó cho riêng mình, nhưng các ông đã ra đi rao giảng, làm chứng cho mọi người biết Chúa đã sống lại. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách thánh hoá những việc làm hàng ngày, là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, trong lời nói, trong việc làm của chúng ta, và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần Tin Mừng vào công việc trần thế, vào nghề nghiệp, vào các giao tiếp với người khác, vào cả những lúc vui chơi giải trí… Chúng ta xao lãng bổn phận này hay chúng ta tách rời tinh thần Tin Mừng khỏi đời sống là chúng ta chưa sống đạo đầy đủ đúng nghĩa.

Trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Chúng ta tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng. Và chúng ta biết rằng hiệu quả hơn chính là trong cuộc sống. Đời sống của chúng ta là bằng chứng rõ ràng nhất diễn tả đức tin. Chúng ta hãy cố gắng sống thế nào để người khác nhận biết chúng ta là người có đức tin, là người con cái Chúa.

 

24. Vì Chúa

Bài đọc từ sách Công vụ Tông đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ phía những nhà lãnh đạo Do thái. Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một thời gian trước đây đã từng chối Đức Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã giữ vững được lập trường của mình, và can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông đã phải chịu đau khổ vì quan điểm của mình: ông và các tông đồ đồng môn của ông đều bị đánh đòn. Nhưng họ đều vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu mà Phêrô có được lòng can đảm mới mẻ đến thế? Ông có được lòng can đảm là nhờ ở Chúa Thánh Thần, và nhờ sự nâng đỡ của các tông đồ đồng môn của ông. Thật may mắn là kể từ thời các tông đồ, nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả năng vượt qua được nỗi sợ hãi, và làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Tháng 3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt. Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẫu giấy, rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà. Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.

Lòng tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói “Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ chúng tôi”. Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với nhau, và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm đối với nhau. Với tốc độ tiến triển và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.

Irina và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người trong số họ đã trở thành nữ tu. “Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào”. Những người giống như Irina và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu, khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người. Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa theo cách đó được. Chúng ta là những người môn đệ của Đức Giêsu. Người tuỳ thuộc vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các tông đồ, hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi tệ – thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta. Chúng ta không thể nói trước được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.

 

25. Tiếng gọi

Ngày xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết rơi. Trong khi đang đi trên một con đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu khi đến với những người này. Sau khi đã nói vài câu về giá trị của ngọn lửa, anh lỉnh đi mất.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong quá trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của anh.

Đi xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung quanh một ngọn lửa cháy rực sáng. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời anh vào! Mời anh vào!”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh đã ghé qua”.

Khi đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng con đã không đáp ứng được yêu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói. Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận thông điệp này. Anh thức dậy và không thể ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của những người bị lạnh lẽo.

Nhưng rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong công việc của anh sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với ơn gọi của mình.

Nhưng vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư là phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.

Có hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu. Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa “xin vâng”của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.

Câu chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi. Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe một lần, và đáp lại một lần mà thôi, nhưng phải lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.

Tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu – yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).

 

26. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC TÔNG ĐỒ

Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người cho đến ngày tận thế.

Hành vi không bình thường

Các tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ. Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có đó”.

Mẻ cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó, nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải ai cũng nhận ra.

Thái độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ, ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?

Cách hành xử của Đức Giêsu

Đức Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người phục vụ những người Ngài yêu thương.

“Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.

Tại sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.

Không một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Thầy.

Số phận và thái độ cần có của con người

Sau bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói: Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.

“Khi con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình. Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.

“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!
  2. Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
  3. Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?

 

27. Ông ấy không biết mình có sức mạnh như vậy

Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ, Calvin Coolidge, một lần đã đọc một bài diễn văn cho một bộ lạc người Da Đỏ ở trên miếng đất cằn cỗi mà đã từ lâu không có một giọt mưa nào. Những người phù thuỷ thổ dân và những người có thể làm cho mưa đã làm những nghi lễ vô ích. Bầu trời vẫn trong sáng và mùa màng sẽ bị mất. Tổng thống Coolidge đã nhìn vào những gương mặt đau khổ và nói, “Các bạn đừng nghĩ rằng tôi ở Washington và tôi không biết về hoàn cảnh sống của các bạn. Đừng nghĩ rằng tôi không khỏi những ưu tư lo lắng. Các bạn đừng nghĩ rằng tôi đã không lo lắng tìm cách để cứu giúp các bạn.”Sau đó, trước cảnh lạ lùng của mọi người, những cơn mây đã kéo đến và một trận mưa rào to đã đổ xuống. Tổng thống đã bị ướt đẫm trước khi ông tìm được chỗ để trú thân. Nhìn những giọt mưa đổ xuống, tổng thống đã kêu lên, “Trời ơi! Tôi đã không biết là tôi có sức mạnh như thế ở trong mình tôi!”

Simon Phêrô đã không biết rằng ông có sức mạnh như thế ở trong con người của ông cho đến cái giây phút ông bắt gặp được Người Lạ ở trên bờ hồ là Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, ông bắt đầu rao giảng không ngừng, không mệt mỏi, hăng say, không sợ sệt gì cả về Tin Mừng về Chúa Kitô Phục Sinh. Từ cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã có thể làm cho người ta cảm thấy mạnh mẽ, cảm động lòng người, chữa các bệnh tật, thay đổi muôn vàn tâm hồn. Thánh Phêrô đã giảng, “Anh em đã giết chết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng”(Cv 3:15).

Simon Phêrô đã không biết điều mà ông có trong người. Tuy nhiên, khi giây phút quyết định đã đến, khi Phêrô nhảy xuống thuyền và bơi vào với Chúa Giêsu Phục Sinh, ngài trở thành một Kitô hữu lập dị mà dám nói với Thượng Hội Đồng Do Thái rằng, “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Trong chương 5 của sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Luca nói cho chúng ta truyện Thánh Phêrô và các Tông Đồ đứng trước Thượng Hội Đồng của người Do thái bởi vì họ bị tố cáo một số tội, cộng luôn cả tội phá ngục. Thượng Hội Đồng đã ra lệnh cấm các Tông Đồ không được rao giảng về Chúa Kitô Phục Sinh. Các Tông Đồ đã được thành lập theo một tổ chức. Họ biết những điều mình nói sẽ đưa họ đến chỗ nào. Ai cũng phải biết về sự nguy hiểm của kiểu giảng dạy như thế. Thượng tế của hội đồng đã lên tiếng cảnh cáo, “Chúng tôi đã ra lệnh cấm các anh nói về Giêsu, và các anh đã không tuân theo và đã làm cho thành Giêrusalem này nực đầy mùi giáo huấn của các anh.”Thánh Phêrô đã trả lời, “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”Với lời nói ấy, Phêrô và các Tông Đồ có thể bị giết. Thế nhưng, một người Pharisiêu đã đứng ra và lên tiếng, “…nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quí vị không thể nào phá huỷđược; không khéo quí vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.”Sau cùng, các Tông Đồ đã được thả về và một lần nữa, Thượng Hội Đồng lại ra lệnh cấm các ông không được rao giảng. Thế nhưng, các Tông Đồ hiểu rằng Phúc Âm Chúa Kitô vượt trên mọi lời đe doạ.

Chúng ta thấy sự so sánh giữa bài thánh thư của Thánh Luca, diễn tả sự gan dạ của Thánh Phêrô đứng giữa Thượng Hội Đồng, và bài Tin Mừng theo Thánh Gioan, tả lại cảnh Thánh Phêrô đang đánh cá. Thánh Gioan thuật lại cảnh ngộ mà Thánh Phêrô đã trở nên một con người mới. Thánh Phêrô và một số Tông Đồ đang ngồi nghỉ tại bờ sông Tiberia. Chúa Giêsu đã bỏ họ, và họ không biết phải làm cái gì cả. Có lẽ có một số người đã chọc tức họ, “Đó kìa, những người môn đệ của Giêsu Nagiareth. Có lẽ cuộc phiêu lưu đã chấm dứt. Chuyện gì đã xảy ra với những ước mơ của quí huynh? Sư phụ đâu rồi?”

Những lời nhạo báng mỉa mai đó đã đưa đến kết quả. Thánh Phêrô đã nói lên quyết định của ngài: “Tôi đi đánh cá.”Và những người khác đã đồng thanh, “Chúng tôi cũng đi với anh.”Mọi sự coi như là tan theo mây khói, và họ phải trở về với chiếc tàu đánh cá, chiếc lưới, và những việc làm thường ngày. Tệ hơn nữa, họ thả lưới cả đêm mà không bắt được chút gì cả. Khi trời vừa mới hừng đông, một Người Lạ đã nói với họ phải thả lưới ở mạn thuyền và họ đã bắt được nhiều cá mà họ không thể nào kéo lên nổi.

Thánh Gioan đã nhanh nhẩu nói với Phêrô, “Chính Chúa đó!”Trong chính cái giây phút đó, Thánh Phêrô đã trở thành một người mới. Không có một cái gì có thể cản trở ông đến với Chúa Giêsu, và ông đã nhanh nhảu nhảy xuống và bơi vào với Chúa Giêsu. Sự trở lại của Thánh Phêrô đã hoàn tất. Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta lời cuối cùng Chúa Giêsu nói với Phêrô, “Hãy theo Ta!”và Phêrô đã đi theo.

Chúng ta thấy địa vị của chúng ta và của Thánh Phêrô thời xưa cũng tương tự giống nhau. Sự trung tín hoàn toàn của chúng ta thường bị thử thách. Thiên Chúa phán, “Hãy nói!”, và con người nói, “Hãy im!”, và chúng ta phải chọn lựa…

Chúa Kitô bị đóng đinh đang nhìn xuống chúng ta với dòng máu ở trong bàn tay, bàn chân, nhưng sự sống từ trong ánh mắt của Ngài, kêu gọi chúng ta sự lựa chọn giữa tình yêu và sự lãnh đạm. Ngài sẽ không để chúng ta mồ côi và đi chỗ khác, Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta với bàn tay bị đóng đinh của Ngài. Ngài sẽ không để cho chúng ta dùng thế giới này như là một công viên để chơi, hoặc là một chiến trường. Chúng ta phải chăm sóc nó, nếu không thế giới sẽ bao trùm bằng bóng tối.

Nếu chúng ta chọn Chúa như Thánh Phêrô, có lẽ chúng ta sẽ chẳng được những vinh quang như được huy chương, bằng cấp, học vấn, được báo chí ca ngợi, nhưng là những vết sẹo. “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5:10).

 

28. Đức Giêsu hiện ra ở bờ hồ Tibêria

(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Tuy ngay từ đầu, TM IV được lưu truyền luôn luôn có ch. 21, các nhà chú giải cho rằng chương này chỉ là một phụ trương được thêm vào sau. Nhưng vì không có được những bằng cớ thật xác đáng về ngôn ngữ và văn phong để có thể khẳng định mạnh hơn, các tác giả hiện nay chấp nhận rằng chương 21 đã được một môn đệ thuộc trường phái Gioan (hoặc một môn đệ của người môn đệ Đức Giêsu yêu thương) thêm vào khi xuất bản quyển TM IV. Với lại có một loạt những chi tiết rõ ràng là các biểu tượng, khiến không dễ gì mà nói được rằng điều gì đã xảy ra thực sự.

Riêng ở đây, chúng ta chọn đọc theo phương pháp đồng đại. Như thế, theo đường tường thuật của tác giả thánh, Đấng Phục Sinh đã hiện ra hai lần giữa các môn đệ, chứng minh rằng Người là Đức Chúa hằng sống và đã được tôn vinh (20,19-21), bằng cách cho các ông thấy các vết thương. Lần hiện ra được kể trong bản văn chúng ta đọc hôm nay là lần thứ ba. Vào lúc tảng sáng, Đức Giêsu ở trên bờ Hồ Tibêria; các môn đệ đang ở trên thuyền để đánh cá. Các ông thấy Người, nhưng không nhận ra Người (21,4). Các ông im lặng. Đức Giêsu nói và hành động, còn các ông thì hành động theo như Người truyền. Ở đây không còn phải là ghi nhận sự thật là Người đã sống lại, nhưng là trải nghiệm một điều khác: khi các ông hành động theo lời Người, các ông đạt được những kết quả khả quan, và các ông thấy là Người vẫn tiếp tục ăn uống với các ông (21,1-14). Sau đó, Đức Giêsu đã “bổ nhiệm” Simôn Phêrô làm mục tử chăn dắt chiên của Người và loan báo con đường tương lai của ông (21,15-19).

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (21,1-14):

  1. a) Cảnh đánh cá (cc. 1-8),
  2. b) Bữa ăn trên bờ biển (cc. 9-13),
  3. c) Một nhận xét (14);

2) Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (21,15-19):

  1. a) Đức Giêsu phục quyền và giao nhiệm vụ cho Phêrô (cc. 15-17),
  2. b) Đức Giêsu nói về số phận của Phêrô (cc. 18-19).

3.- Vài điểm chú giải

– Sau đó (1): Đến sau đoạn kết 20,30-31, công thức chuyển tiếp này không có giá trị về thời gian rõ ràng gì.

– tỏ mình (1): Đọng từ phanêroun được dùng 9 lần trong TM IV (còn trong chương 21: 2 lần trong c. 1 và 1 lần trong c. 14). Động từ này diễn tả một ý tưởng là có điều gì vượt lên khỏi bóng tối; đối với Ga, động từ này muốn nói đến một mạc khải từ trời cao ban cho trái đất.

cho các môn đệ (1): Từ này nhắm đến những người đã chứng kiến Đức Giêsu hiện ra ở 20,19.26. Như thế, ta có thể cho rằng đây là Nhóm Mười Một (theo các TMNL). Bảy (hay năm) môn đệ sẽ được nêu tên ở c. 2.

– Ông Simôn Phêrô… (2): Con số các môn đệ có mặt là bảy ông. Tại ch. 21 này, chúng ta đang ở tại miền Galilê; miền này nhắc nhớ đến “Galilê của Dân ngoại”. Và bảy môn đệ là các thủ lãnh của cộng đoàn phát sinh từ Dân ngoại (x. Cv 6,1-6). Điểm mới ở đây là có những thủ lãnh đến từ Dân ngoại và những thủ lãnh thuộc Nhóm Mười Hai. Điểm này nhằm nêu bật sự hợp nhất của cộng đoàn.

– đêm ấy họ không bắt được gì cả (3): Động từ piazein (ở đây và c. 10) xuất hiện trong TM Ga 6 lần khi nói về việc bắt Đức Giêsu; trong thực tế, động từ này không mấy khi được dùng để nói về việc bắt thú vật hay bắt cá. Những người quen biết tập quán Paléttina cho biết là, thường thường, trên Hồ Galilê, người ta đánh cá ban đêm thì có kết quả tốt hơn là ban ngày; với lại cá bắt được ban đêm có thể bán được khi còn tươi vào lúc sáng sớm.

– thả lưới xuống bên phải mạn thuyền (6): Chi tiết lạ lùng này không có trong câu truyện song song của TM Lc (Lc 5). Bên phải là bên may mắn, bên tốt (x. Mt 25,33), nhưng ở đây hẳn là không có nghĩa này. Tác giả Ga muốn gợi ý là Đức Giêsu có một sự hiểu biết vượt quá tự nhiên và người môn đệ có một bổn phận luân lý tương ứng là vâng lời Người chính xác.

– Chúa đó (7): Danh hiệu này được dùng như một lời tuyên xưng Đức Giêsu Phục Sinh ở 20,18.25 và 28. Xem c. 12.

– Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần (7): Khó mà cho rằng Phêrô hoàn toàn trần truồng, vì như thế sẽ xúc phạm đến tính nhạy cảm của người Do-thái. “Ở trần” (gymnos) có thể có nghĩa là ăn mặc phong phanh. Chúng ta có thể hình dung ra hoàn cảnh sau: Lúc đó vì là buổi sáng, trời hơi lạnh, Phêrô khoác một tấm áo ngoài (ependytês) để làm việc. Vừa nghe biết là Đức Giêsu, ông liền thắt áo lại để nhảy xuống nước mà bơi vào, bởi vì động từ dyazônnymi (ở thì aorist là diezôsato) có nghĩa là “thắt [áo] quanh mình [bằng một dây lưng]”. Như thế ông thắt chặt áo lại để bơi dễ dàng.

– một trăm năm mươi ba con (11): Tác giả Ga thường dùng “khoảng/phỏng chừng” (hôs), thế mà ở đây ông lại cho một con số tròn. Rất có thể người ta đã đếm cá vì tò mò; nhưng con số này được ghi lại hẳn không chỉ vì muốn cho chính xác. Do đó, các nhà chú giải đã đoán là đây là một con số biểu tượng: (a) Thánh Giêrônimô cho rằng con số này lấy từ kiến thức về động vật học lúc đó (trên thế giới có 153 loại cá), để nói rằng công việc truyền giáo của các Kitô hữu sẽ đưa vào Hội Thánh mọi người hoặc ít ra mọi hạng người; (b) Thánh Âutinh cho rằng con số này tượng trưng cho sự hoàn hảo…; (c) Thánh Cyrillô Alexandria thì tách con số làm ba: số 150 chỉ toàn thể Dân ngoại, số 50 chỉ số sót của Israel, số 3 chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi… Vấn nạn cho các giả thuyết này là: các độc giả của TM IV có hiểu được theo cách tinh tế như thế chăng. Nhưng dù theo giả thuyết nào, ý nghĩa phổ quát vẫn nổi bật. Ta có thể cho rằng ý nghĩa của con số 153 bắt gặp công thức “gom được đủ thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (x. Mt 13,47). Hội Thánh phải quy tụ vào trong lưới của mình tất cả các dân nước, như Người mục tử chân chính quy tụ vào đàn mình những con chiên phát xuất từ những ràn chiên khác với ràn chiên Israel (Ga 10,16). Cũng vậy, Con Người sẽ lôi kéo tất cả mọi người vào trong một tấm lưới cánh chung (x. 12,32; 6,44). Như thế, cần liên kết vào đề tài này các chi tiết về chiếc thuyền duy nhất và tấm lưới nguyên vẹn.

– Đó là lần thứ ba (14): Từ công thức này, ta suy ra là người viết biết chương trước. Nhưng trong ch. 20, ta thấy có ba cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh. Vậy hẳn là tác giả chỉ quan tâm đến các cuộc hiện ra với Nhóm Mười Một (không kể đến cuộc hiện ra với Maria Mácđala).

– anh có mến/thương Thầy không? (15.16.17)[1]: Hầu như tất cả các nhà chú giải đã cho rằng Đức Giêsu hỏi ba lần là để tha việc ba lần Phêrô chối Người. Nhưng nếu vậy, hẳn là đến lần thứ ba, mới có việc trao quyền chăn chiên, như để cho Phêrô hiểu là ông đã thực sự được tha thứ. Thế thì tại sao ở đây lại có ba lần trao “bài sai”? Vào thời xa xưa, những công thức pháp lý thường không được viết ra, nhưng được lặp lại ba lần trước người chứng (chẳng hạn trong luật hôn nhân Paléttina); khi đó thủ tục kết giao đã được hoàn tất đúng quy cách và có hiệu lực. Như vậy, ở đây Đức Giêsu lặp lại ba lần là để cho hiểu rằng Phêrô đã được chính thức và đúng thể thức trao nhiệm vụ chăn dắt tất cả đàn chiên của Người. Qua ba lần trực tiếp trao nhiệm vụ, Đức Giêsu cũng gián tiếp tha thứ cho Phêrô.

  Tình yêu mà Đức Giêsu nói đến là agapê, một tình yêu quảng đại, tự hiến mình hy sinh (agapas me). Sau khi đã chối Đức Giêsu, Phêrô không dám so sánh agapêcủa ông đối với Đức Giêsu với agapê của các môn đệ khác, nhưng ông khẳng định tình thương của ông (philô se) là tình thương trìu mến (philia) như một người bạn (philos). Ông đã chứng tỏ tình thương trìu mến của ông đối với Đức Giêsu lớn hơn tình thương của các môn đệ khác, khi nhảy xuống nước và bơi vào bờ để đến với Đức Giêsu trước (c. 7), còn các môn đệ khác từ từ vào bờ bằng thuyền (c. 8).

– hãy chăm sóc … chăn dắt (15.16.17): “Chăm sóc” (boskein, cc. 15 và 17), “chăn dắt” (poimanein, c. 16). Bản LXX dùng cả hai động từ Hy-lạp này để dịch động từ Híp-ri râ‘âh (to feed; to pasture; to rule), nên ta có thể coi hai động từ này có cùng một ý nghĩa (Bản Neo Vulgata dịch cả hai trường bằng động từ La-tinh pascere). Tuy nhiên, cách tinh tế hơn, ta thấy boskein được sử dụng theo cả nghĩa chữ lẫn nghĩa bóng (Ed 34,2) để diễn tả việc “nuôi dưỡng thú vật”; còn poimanein có cả một vùng ý nghĩa bao quát hơn, gồm các công việc làm cho đàn vật như “hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng”, cả nghĩa chữ (Lc 17,7) lẫn nghĩa bóng (Ed 34,10; Cv 20,28; Kh 7,17…), và cũng có thể có nghĩa là “điều khiển, cai quản”. Tổng hợp lại với nhau, hai động từ này diễn tả toàn thể công việc mục vụ[2].

– chiên (15.16.17): Ở c. 15, “các chiên” là arnia (“lambs”); ở cc. 16 và 17, “các chiên” là probata (“sheep”). Arnia là từ hiếm, trong TM IV chỉ được dùng ở chỗ này[3], nên từ tương ứng với arnia ở c. 17, chúng tôi đồng ý với R.E. Brown mà cho rằng, thay vì đọc là probata thì phải đọc là probatia, cũng là một từ hiếm (theo Codex Alexandrinus và Codex Vaticanus); còn probata (theo Codex Sinaiticus) có thể là một sửa chữa của người chép cho hài hòa với c. 16 và Ga 10. Lý do: nếu bản gốc là probata, không lẽ người chép nào đó lại sửa thành từ ngữ hiếm là probatia [4].

Tuy có những tác giả, như Brown, cho rằng các từ ngữ này có cùng một ý nghĩa như nhau để chỉ chung là “các con chiên”, chúng ta có thể cho rằng cần phân biệt ý nghĩa các từ vì có một (hoặc hai từ) lạ (là arnia và probatia). Kh 7,17 mô tả Con Chiên (arnion) như là Đấng chăn dắt (poimanei) và dẫn đưa (odêgêsei) đàn chiên như một mục tử. Arnia ở Ga 21,15 hẳn cũng có ý nghĩa biểu tượng này. Vậy từ ngữ này rất có thể nhắm đến các thủ lãnh của cọng đoàn Kitô hữu. Nói cách khác, ở c. 15, Đức Giêsu ủy thác cho Phêrô nhiệm vụ nuôi dưỡng các thủ lãnh (mục tử) của các chiên Người. Ở cc. 16 và 17 “các chiên” là probata (“sheep”) và probatia (“little sheep”). Khi đó, chúng ta sẽ có một danh sách đi xuống là “mục tử”, “các tín hữu”, và “các tân tòng”. Dù sao, nếu không chấp nhận probatia, chúng ta vẫn có thể hiểu probata theo nghĩa bao quát là “các tín hữu” (nói chung) và “các tân tòng”. 

4.- Ý nghĩa của bản văn

  Trong Ga 21,19-31, tác giả muốn các Kitô hữu biết rằng bất cứ khi nào họ gặp nhau trong ngày của Chúa để cử hành Thánh Thể, Chúa Phục Sinh sẽ ở giữa họ. Trong bản văn hôm nay, Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ vào một ngày trong tuần. Bản văn thật sự có những ý nghĩa biểu tượng.

* Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ (1-14)

  Theo đề nghị của Phêrô, bảy môn đệ đi đánh cá. “Bảy” là biểu tượng của sự hoàn thiện, sự đầy đủ, nên Phêrô và các tông đồ kia tượng trưng tất cả các môn đệ của Đức Kitô. Còn “biển”, đối với Israel, là biểu tượng của tất cả những sức mạnh thù nghịch với con người. Nhiệm vụ các ông là đi ra “biển” mà “đánh/bắt cá” người, tức kéo họ khỏi những hoàn cảnh giới hạn tự do yêu thương và sống hạnh phúc. Suốt đêm, các ông không bắt được gì cả, vì không được Chúa Phục Sinh hướng dẫn. Khi đêm tối tan biến thì cũng tan biến ước mong đánh được một mẻ cá lớn.

Ngay lúc các ông còn đang chìm trong thất bại, Đức Giêsu ở trên bờ gọi các ông: “Này các chú (paidia)”. Trong tư cách Đấng Phục Sinh, Người không bị chia cách khỏi các ông, nhưng vẫn liên kết với các ông với lòng thương mến, để ân cần săn sóc các ông. Khi nghe Người gọi, các môn đệ thú nhận là đã thất bại. Đức Giêsu cho các ông những chỉ dẫn chính xác và tiên báo một mẻ cá phong phú. Các ông đã vâng nghe Người, nên đã đạt được một kết quả hết sức dồi dào. Kinh nghiệm cho các môn đệ thấy rằng họ đạt được kết quả không nhờ những vất vả mệt nhọc của họ, nhưng nhờ nghe lời Đức Giêsu. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến bây giờ nhận ra Chúa[5]. Cũng như vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, tại mộ trống (20,2.8), bây giờ người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã là người thứ nhất nhận biết Đức Giêsu với niềm tin tròn đầy. Người môn đệ này có trực giác bén nhạy và đã báo cho Phêrô biết khám phá của mình. Ông này không chờ đợi thêm, ông quên cả mẻ cá lớn, con thuyền và các môn đệ khác, ông nhảy xuống biển, để là người đầu tiên đến bên Đức Giêsu.

  Đức Giêsu Phục Sinh không ở trên thuyền, mà lại ở trên bờ, còn các con thuyền nhắm Người mà đi vào. Ở đây, có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng nữa: Dù đang đứng trên bờ, Đức Giêsu đang ở trong vinh quang của Cha Người và cũng luôn luôn ở cùng chúng ta, mỗi ngày, cho đến tận thế. Đức tin cho các môn đệ được nên vững chắc là do Người tiếp tục trò chuyện với họ.

Đấng Phục Sinh chờ các môn đệ vào tới bờ, cũng có thể hiểu theo nghĩa biểu tượng là đạt tới trời. Người đã có cá rồi (c. 9), đây là hoa trái của các hành vi của Người trong thế giới, cho dù công việc của Người phải được hoàn tất bởi những kẻ tin Người. Giống như bảy môn đệ, toàn thể cộng đoàn Kitô hữu được chờ đợi là mang theo cá với mình, tức hoa trái của việc tông đồ. Còn bánh thì Đức Giêsu luôn mang theo, đó là Thánh Thể, bánh mà Chúa Kitô Phục Sinh bẻ ra muốn tất cả chúng ta chia sẻ. Người mời tất cả các môn đệ ăn điểm tâm với Người và xin họ góp phần bằng số cá vừa đánh được (21,10.12). Cũng như trong bữa ăn với số bánh được Đức Giêsu nhân lên cho đám đông, trong đó Hồ Tibêria được nhắc tới (6,1), ở đây Đức Giêsu cũng “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy” (21,13). Chắc chắn, hơn bao giờ hết, bây giờ Đức Giêsu quả là “bánh ban sự sống” (6,35) cho các ông. Không một môn đệ nào hé một lời, bởi vì các ông đều biết rằng đó là Chúa. Các ông hoàn toàn sống dưới sự hiện diện và cho sự hiện diện của vị Chúa này, là Đấng đã sống lại, đã ngỏ lời với họ cách khả ái, Đấng vừa cho các ông bắt được một mẻ cá lạ lùng và cho các ông được hiệp thông với Người và ban cho các ông sự sống viên mãn.

* Đức Giêsu Phục Sinh nói với Phêrô (15-19)

  Sau khi ăn xong, Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn Phêrô. Lần cuối cùng hai vị nói chuyện với nhau là vào giờ từ biệt (13,36-38). Lúc ấy, Phêrô đã quay lại hỏi là Người đi đâu và đã đoan chắc với Người là sẵn sang hy sinh mạng sống vì Người. Đức Giêsu đã ba lần tiên báo rằng Phêrô sẽ chối Người ba lần, và chuyện đã xảy ra như thế (18,15-18.25-27). Bây giờ Người hỏi ông ba lần là có mến thương Người không, rồi trao phó ba lần nhiệm vụ làm mục tử chăn dắt đàn chiên của Người, là để chứng tỏ Người đã tha thứ cho Phêrô, và nhất là cho hiểu ông đã được chính thức trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người.

  Những câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho Phêrô và những câu trả lời ông thưa lại là một lối “chơi chữ” rất ý nghĩa trên các động từ. Trong tiếng Hy-lạp, động từ phileô diễn tả tình yêu thương giữa bạn bè, dịu dàng nhưng không bao trùm cả cuộc sống, còn động từ agapaô diễn tả tình yêu không giới hạn, không dè giữ, trọn vẹn và vô điều kiện. Lần đầu, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “Simôn …, anh có mến Thầy (agapas me)”, nghĩa là yêu thương với tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện không (Ga 21,15)? Nếu chưa trải nghiệm sự phản bội, hẳn là ông đáp ngay: “Con mến Thầy (agapô se)” vô điều kiện! Bây giờ, khi đã nếm cảm nỗi đau buồn vì thất trung, đã sống tấn bi kịch về sự yếu đuối của mình, ôngchỉ dám khiêm tốn trả lời: “Thưa Thầy, con thương Thầy (philô se)”, nghĩa là “con thương Thầy bằng tình yêu con người nghèo hèn của con”. Đức Kitô lại hỏi: “Simôn, con có mến Thầy”, tức là yêu thương bằng tình yêu trọn vẹn mà Thầy mong muốn không? Phêrô lặp lại câu trả lời nói về tình yêu con người nghèo hèn của mình: “Kyrie, philô se”. Đến lần thứ ba, Đức Kitô chỉ hỏi: “Phileis me?”, “Anh có thương Thầy không?”. Simôn hiểu rằng Đức Giêsu bằng lòng với tình yêu nghèo hèn của ông, vì đó là thứ tình yêu duy nhất ông có thể bày tỏ, nhưng ông cũng buồn vì thấy Thầy đã phải nói với ông như thế. Thế là ông trả lời: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết rõ con thương Thầy (philô se)”. Có thể nói là Đức Giêsu đã thích ứng v#7899;i Phêrô, hơn là Phêrô thích ứng với Người! Chính sự thích ứng này đã làm phát sinh niềm hy vọng và tin tưởng nơi Phêrô, sau khi ông đã phải đau khổ vì phản bội, để ông còn có thể bước theo Thầy (21,9)[6].

  Tại Caphácnaum, Simôn Phêrô đãtuyên xưng niềm tin và tình yêu đối với Đức Giêsu, nhưng rồi ông đã chối Thầy ba lần. Hôm nay, ông tái lập tương quan cơ bản với Đức Giêsu, và đồng thời với Thiên Chúa (x. Ga 14,15-24): chính vì thế, ông lại có thể được nhận làm môn đệ Đức Giêsu và đi theo Người cho đến chết để tôn vinh Thiên Chúa (x. Ga 21,18-19).

  Trong tư cách là Người mục tử nhân lành, Đức Giêsu lo lắng cho đàn chiên của Người, vì bây giờ Người không hiện diện hữu hình ở giữa họ nữa. Bởi vì Người chăm sóc họ và muốn gìn giữ họ, Người ban Phêrô cho họ để ông làm mục tử dẫn dắt họ. Phêrô phải săn sóc họ, phải giữ cho họ đi trên đường ngay nẻo chính, phải điều khiển và hướng dẫn họ. Con đường đã là và vẫn là Đức Giêsu (14,6); sự sống chỉ đến nhờ kết hợp với Người. Nhiệm vụ của Phêrô là dẫn đưa họ đến với Người và giữ cho họ được hiệp thông với Người.

  Bước đầu tiên để đi tới nhiệm vụ đó, là tình yêu của Phêrô đối với Người mục tử nhân lành. Điều cần ghi nhận là vị trí tối thượng của Phêrô được đặt trên tình yêu tối thượng của ông đối với Đức Giêsu, bởi vì Người chỉ giao nhiệm vụ chăn chiên sau khi đã hỏi Phêrô là có yêu thương Người hơn những môn đệ khác không. Nơi ông, tình yêu đối với Đức Giêsu càng sống động, thì bản thân ông càng mất tầm quan trọng, ông càng phải săn sóc những ai được giao phó cho ông, ông phải dẫn họ đến với Đức Giêsu và giữ cho họ kết hợp với Người. Đức Giêsu hỏi Phêrô ba lần là ông có yêu mến Người không. Phêrô không khẳng định mạnh để trả lời; ông nhắc lại rằng Đức Giêsu biết, và ông tuyên xưng chính tình yêu của ông. Lần thứ ba, ông buồn, vì ông nhớ lại chuyện chối Đức Giêsu ba lần. Nhưng Đức Giêsu đã tha thứ cho ông rồi. Bây giờ, khi ông đã trải nghiệm tối đa sự yếu đuối của bản thân, thì Đấng Phục Sinh giao phó nhiệm vụ mục tử cho ông. Lần thứ ba, ông trả lời thẳng thắn, ông không thể che đậy gì với Chúa, vì ở với Người, mọi chuyện được bảo đảm.

Vào giờ ly biệt, Phêrô đã khẳng định là sẽ theo Chúa. Đức Giêsu đã loại bỏ sự tự phụ này và báo trước: “Sau này, anh sẽ đi theo Thầy” (13,36). Phêrô sẽ chia sẻ số phận của Đức Giêsu, sẽ chết như Người một cái chết tàn bạo. Ông sẽ bị dẫn đến nơi ông không muốn. Ông phải chấp nhận điều mà kẻ khác áp đặt cho ông. Ta không chắc là phải chăng là khi nói như thế, Đức Giêsu nhắm đến cái chết thập giá. Nhưng vào lúc mà Phêrô không còn chọn con đường của mình nữa, thì ông đã ở trên đường của Đức Giêsu, Đấng đã nhận lấy cái chết thập giá. Do đó, Đức Giêsu bảo ông: “Hãy theo Thầy” (cc. 19.22). Dù thế nào, Đức Giêsu luôn luôn ở với Phêrô không những khi thành công, mà cả khi thất bại, cả khi ông bị người đời khước từ và giết chết (cc. 18.19).

+ Kết luận

  Trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho các môn đệ sống thời gian sau này, khi Người không còn hiện diện hữu hình giữa các ông nữa. Các lần Người hiện ra sau Phục Sinh cũng nhắm mục tiêu này. Các ông phải biết chắc chắn rằng Người đã chiến thắng trên sự chết và Người sẽ trở về với Thiên Chúa. Các ông phải tin vào Người là Đức Chúa và Thiên Chúa. Điều tác giả thực sự muốn chúng ta biết chắc, đó là các tông đồ đã trải nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, nhưng đồng thời, ngài cũng cung cấp một bài giáo lý cho các Kitô hữu thời ngài. Hôm nay, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta qua mọi thăng trầm của cuộc sống.

Tuy nhiên, nếu chỉ để nói về niềm tin vào Đức Giêsu, thì các chương 1-20 cũng đã đủ, hoặc chỉ cần nói thêm đến 21,14. Do đó, có thể nói bài tường thuật cuộc hiện ra này chỉ là dịp để đưa vào cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Phêrô. Như thế, ở đây không còn là một vấn đề Kitô học nữa, mà là một vấn đề Giáo Hội học.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn luôn ở gần bên các môn đệ, âu yếm dõi theo các hoạt động của họ, nhưng họ không cảm thấy được sự hiện diện này. Và Người giúp họ thắng vượt những thất bại, nếu họ vâng nghe lời Người chỉ dẫn. Đối với chúng ta cũng thế, Đức Giêsu Phục Sinh luôn chúc phúc cho công việc chúng ta làm và vẫn là nguồn ban sự sống cho chúng ta. Chúng ta phải trung thành với những nhiệm vụ được giao phó và bước theo Người trên đường Người đi.
  2. Hình ảnh Đức Giêsu cầm lấy bánh trao cho các môn đệ nhắc lại cho các ông nhớ rằng Người chính là lương thực nuôi dưỡng các môn đệ. Hôm nay vì Người đã sống lại, Người đúng là lương thực thần linh, ban sự sống đời đời, giúp cho các môn đệ đủ sức tiến về quê hương vĩnh cửu.
  3. Đức Kitô Phục Sinh tiếp tục hiện diện và hướng dẫn các môn đệ sống và làm việc bằng Lời của Người. Khi các cộng đoàn Kitô hữu đi theo các lời chỉ bảo của Người, họ sẽ thấy những kết quả thường phi thường, được bài Tin Mừng hôm nay tượng trưng bằng lượng cá lớn mà các môn đệ bắt được.
  4. Qua hoạt cảnh Đức Giêsu Phục Sinh trao nhiệm vụ mục tử cho Phêrô, chúng ta hiểu: vị mục tử nhân loại cần nhớ rằng mình chỉ là người được giao phó nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên của chính Đức Giêsu. Như thế, mục tử nhân loại cũng phải liên tục bước theo Đức Giêsu để có thể chu toàn sứ mạng được ký thác. Để luôn ở ngang tầm với sứ mạng, người mục tử cứ phải yêu mến Đức Giêsu hơn mọi người khác.

———————————————

[1] G. Mlakuzhyil, The Christocentric Literary Structure of the Fourth Gospel, 344.

[2] R.E. Brown, The Gospel according to John, II, xiii-xxi, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299).

[3] Quyển sách Tân Ước khác dùng từ arnion là sách Khải huyền (29 lần).

[4] R.E. Brown, The Gospel according to John, II, 1105t; Mlakuzhyil, Structure, 344-345 (xem các Chú thích 298-299). C. Rusconi lại cho rằng phải đọc probata ở ngay c. 16 là probation, “agnello”, “agnella” (xem mục từ này trong Vocabolario del Greco del Nuovo Testamento, EDB, Bologna 1997, 287). Đây là quan điểm của Codex Vaticanus, Nestle, Aland Synopsis, Barrett, Bultmann.

[5] Đây là hiện tượng mà các nhà chuyên môn gọi là anagnorisis, cũng là peripeteia.

[6] Bài giáo lý của Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI ngày 24-5-2006. Đây cũng là quan điểm của PIB.

 

29. Chú giải của Noel Quesson

Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simon nói với các ông: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh”.

Công cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên không phải là những siêu nhân. Họ lại hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ động khởi xướng. Đó là một biểu tượng đầy ý nghĩa.

Mọi người ra đi, lên thuyền nhưng đêm đó họ không bắt được gì cả.

Đánh cá vào ban đêm là một cách thông dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử. Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh mù tối.. trong đêm khuya… họ đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được con cá nào. Chúng ta cũng thường gặp như thế trước những lo lắng về gia đình, nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm tối đời tôi là gì?

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức Giêsu.

Bảy người đang sống trên “biển nổi sóng”, giữa cảnh mù tối. Đối với người Xê-mít, biển là nơi các thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày mới lên… nét tương phản cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến bờ khác? Người vừa mới trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên kia, đang chờ đợi ta ở đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.

Hôm nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng ta như thế.

Đức Giêsu nói với các ông: “Này các chú, không ăn gì ư?”. Các ông trả lời: “Thưa không”. Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, anh em sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.

Đức Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng khổ cực của họ. Người chủ động giúp đỡ họ… ngay lúc họ đang bối rối lo lắng. Còn tôi, tôi có thể nghe thấy gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng đến từ “bờ” bên kia?

Người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: “Chúa đó”. Vừa nghe nói “Chúa đó” ông Simon – Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.

Phêrô nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã. Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung động. Nhưng, cũng như trong cảnh đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là người phát hiện ra trước Phêrô. Ông sống “yêu thương”, nên ông đoán định theo trực giác. Nhận biết một người, chính là một công việc của tình yêu.

Do đó, đức tin luôn liên hệ với tình yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình ra với những kẻ thù nghịch, những đối phương. Người không có ý định khuất phục họ. Người không thích bá chủ, chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa với tình yêu, Người sẽ tỏ hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và chân thành. Bạn hãy kiếm tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.

Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.

Đây là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký xác thực của một nhân chứng.

Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.

Đức Giêsu bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây! “

Đây cũng là một chi tiết nữa, rất khác thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính. Đức Giêsu đã chuẩn bị một “bữa ‘ăn” cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ đợi, do nỗ lực sửa soạn của họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời cứ việc tham dự, bằng cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được, theo lệnh truyền của Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.

Ta biết tầm quan trọng của “bữa ăn” trong những lần hiện ra sau biến cố Phục sinh: vào chiều tối Thứ Năm Thánh Đức Giêsu cũng đã “phục vụ” các bạn hữu của Ngài như thế. Ngày nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia bánh luôn là một dấu chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức Giêsu đang ở trên một bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống mới trong một mối hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.

Ông Simon – Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.

Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.

Sau trực giác yêu thương của Gioan, con người chiêm niệm… bây giờ đến thái độ dấn thân của Phêrô, con người hoạt động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng Giáo hội, được coi như “tấm lưới” không bị rách. Cũng như trong đoạn văn diễn tả “chiếc áo của Đức Giêsu không bị xé rách” (Ga 19,24). Ở đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và chia rẽ.

Đức Giêsu nói: “Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: “ông là ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.

Nhận xét đơn sơ trên đây giúp ta bước sâu vào “mầu nhiệm”. Cuộc Phục sinh đã khiến Đức Giêsu, người bạn thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu Nadarét sống trong một trạng thái hoàn toàn khác… Rõ ràng đúng là Người, nhưng đồng thời không phải như người hôm qua. Người đã trở nên “O kiirios, Đức Chúa!”. Và trong trường hợp này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng!

Đức Giêsu đến, cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.

Đây là bữa ăn thực sự… đồng thời, cũng là bữa ăn mầu nhiệm.

Chúng ta hãy nhớ lại diễn tả dài của Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng theo thánh Gioan, sau khi Chúa dùng “năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá nhỏ”, từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra nhiều…

Vâng, hiện nay Đức Giêsu đang ở “trên bến bờ khác”, trên một vùng đất khác, để trao ban cho ta “lương thực từ trời ” Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (Ga 6,33). “Tôi là Bánh hằng sống… Thịt Tôi thật là của ăn… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời….” (Ga 6,51-55-58).

Chúng ta cũng nên nhớ rằng, vào thời gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng trên đây, các Kitô hữu thường dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức Giêsu. Thực vậy, từ “con cá” (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu các từ định nghĩa Đức Giêsu:

Lèsous Kristos Théou Unios Sôter

Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy. Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Trong cuộc đối thoại trên bãi biển, đã ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó trở thành người mục tử. Người thông truyền cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội. Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là chính Đức Giêsu. “Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên” (Ga 10,11). Giờ đây Đức Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện “bằng xương, bằng thịt” nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp tục sứ vụ của Người trên thế giới và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là chiên của Đức Giêsu: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Lần thứ hai… rồi lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”.

Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?”. Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.

Bị hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ yêu cầu ông ba “lần biểu lộ tình yêu! “Anh có mến Thầy không?”: Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt ra cho chính tôi. Trong thinh lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: “‘Này anh X… anh có yêu Thầy không?”. Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.

Tôi sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi đang được để ý và hỏi han….

Như thế, người đã phạm tội nặng nhất, kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án và chịu khổ hình (thật là một tội khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong tương quan thân mật và yêu thương. Và Đức Giêsu lại uỷthác cho con người tội lỗi đó, trách nhiệm trọng đại nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oi, tình yêu thật là quan trọng! Tình yêu phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính trong Giáo hội, tác vụ trong Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải phục vụ yêu thương anh em mình (Mc 9,35; Ga 13,4-16)… nhưng trong chính tác động đó, cũng là phục vụ yêu thương Đức Giêsu… Đó là một trong những nguồn gốc mầu nhiệm của đời độc thân tận hiến.

Thật Thầy bảo thật cho anh biết: “Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”.

Anh chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi trẻ như biểu tượng của tự do và hoạt động (“Anh đi đâu tuỳ ý”)… và tuổi già như biểu tượng của sự gò bó và thụ động (“một người khác sẽ thắt lưng cho anh”), nghĩa là sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến ta không thể tự mình ăn mặc được nữa)… Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận này, cũng là cách thế thuận theo của Đức Giêsu trên thập giá. ” Đó là hoạt động cuối cùng của con người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng khác: đó chính là tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm mất thể diện Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Người. Đối với Đức Giêsu, cái chết là hoạt động cuối cùng.

 

30. Suy niệm của nhóm Nha Trang

“Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”

  1. Ý CHÍNH:

Chương 21 của Tin-Mừng thánh Gioan được gọi là phụ trương. Vì Gioan muốn nói thêm về việc Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên ở Galilê và đặt Phêrô làm thủ lãnh của Giáo Hội. Bài Tin-Mừng hôm nay là phần đầu của chương này, nói về việc Chúa Giêsu dùng mẻ cá kỳ lạ để làm dấu chỉ cho các Tông Đồ tin nhận Người Phục Sinh.

  1. SUY NIỆM:
  2. “Lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria…”

Khi khởi sự công việc rao giảng ở trần gian, Chúa Giêsu đến bờ hồ Giênêgiarét và tuyển chọn những môn đệ đầu tiên (5,1) để huấn luyện các ông. Bây giờ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu lại hiện đến với các ông đang ở bờ biển Tibêria để trao sứ mạng, cách riêng trao quyền thủ lãnh Giáo Hội cho Phêrô (Lc 21,15-23).

  1. “Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Đidimô….”:

danh sách các môn đệ đã được Chúa hiện ra ở đây chỉ có năm nhưng theo diễn tả của doanh có thể hiểu là bảy. Sở dĩ hiểu như vậy là vì thánh Gioan không kể đến tên các người trong gia đình mình nên có lẽ trước kia chữ “hai con ông Giabêđê”người ta để trong ngoặc cho độc giả hiểu, sau này chép đi chép lại, người ta bỏ ngoặc đi.

  1. “Simon Phêrô bảo: tôi đi đánh cá đây”:

Phêrô là người khởi xướng việc đánh cá. Câu này muốn nói lên vai trò thủ lãnh Giáo Hội của Phêrô.

  1. “Chúng tôi cùng đi với ông….”:

Ơ đây muốn nói lên sự tùng phục của các môn đệ đối với vị thủ lãnh là Phêrô.

  1. “Nhưng đến hôm ấy không bắt được con cá nào”:

Ở đây cũng liên tưởng đến Luca 5,5: “suốt đêm chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì”. Điều này chứng tỏ sự bất lực của con người.

  1. “Lúc rạng đông Chúa Giêsu hiện đến bên bờ biển”:

Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ của Người. thoạt đầu các ông cho nhận ra Chúa là vì các ông chưa am hiểu về sự Phục Sinh của Chúa, mặc dầu các ông tin Chúa sống lại (Ga 20,9).

  1. “Này các con, có gì ăn không?”:

Đây là câu hỏi thông thường như người ta quen hỏi những người đi đánh cá hay những người đi săn về. Đặt câu hỏi này Chúa Giêsu muốn tỏ cự thân mật quen biết để gợi cho các môn đệ nhớ lại Người. Và cũng là câu hỏi để mở đầu câu chuyện.

  1. “Họ đồng thanh đáp: thưa không!”:

Ở đây bày tỏ sự bất lực.

  1. “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”:

Ơ đây liên tưởng đến Lc5,4: “Ra khơi mà thả lưới đánh cá”. Mặc dù các môn đệ chưa nhận ra Thầy mình, nhưng Chúa Giêsu cũng ra lệnh: Một thứ ra lệnh như người có quyền và nắm chắc được hiệu quả của việc “Thả lưới” thì sẽ được.

  1. “Các ông liền thả lưới…”:

Tin tưởng trong tinh thần phó thác, các môn đệ thả lưới như lệnh truyền và tức khắc có hiệu quả là “không kéo nổi lưới lên vì đầy cá

  1. “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô”:

Nếu qua những dấu chỉ của ngôi mộ trống, Gioan người môn đệ Chúa yêu dấu, “Thấy và tin”, thì ở đây qua dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ, ông cũng nhận ra và nói với Phêrô “Chính Chúa đó”. Điều này cho chúng ta thấy sức mạnh dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ, đã đánh động sự nhận thức và đức tin của Gioan.

  1. “Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào”:

Phêrô, dân chài, khi làm việc thì mặc áo cụt tay hay đóng khố, vì thế khi nhận ra Chúa thì ông khoác áo choàng để đến gặp Chúa: Đây là cử chỉ bày tỏ sự tôn kính Chúa Giêsu, Thầy mình. ông nhảy xuống biển để bơi vào bờ cho nhanh hơn. Ở đây nói lên niềm vui mừng và lòng nhiệt thành của Phêrô đối với Chúa Giêsu phục sinh.

  1. “Các môn đệ khác chèo thuyền vào…”:

Phêrô bơi vào trước còn các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ sau. Sự kiện này diễn tả vai trò điều khiển Giáo Hội của Thánh Phêrô.

  1. “Khi các ông lên bờ thấy có sẵn lửa và than”:

Ở đây Chúa đóng vai trò “Anh nuôi”: Chúa dọn cho các môn đệ bữa ăn thanh đạm như bao bữa ăn khác mà Chúa thường ăn với các ông khi còn sống trong vùng này. qua hành động đó, Chúa muốn gợi lên cho các môn đệ nhớ lại những cử chỉ quen thuộc của Người trước đây, để các ông tin nhận ra Người.

  1. “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”:

Chúa đòi các môn đệ đem cá mới bắt được đến, vì Chúa muốn các môn đệ nhìn qua dấu chỉ của mẻ cá để nhận ra Người.

  1. “Lưới đầy toàn cá lớn, tất cả được 153 con”:

Con số 153 không có ý chỉ số lượng cá cho bằng chỉ ý nghĩa biểu hiệu. Theo thánh Hiêrônimô thì các nhà vạn vật học thời xưa khám phá ra được 153 loại cá. Vì thế con số ở đây chỉ số lượng tất cả các loại cá, và như vậy ý nghĩ của con số 153 này trùng hợp với thành ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về Nước-Trời (Mt 13,47).

Giáo Hội phải quy tụ trong lưới của mình tất cả các dân tộc như mục tử chân chính qui tụ trong đàn mình mọi con chiên đến từ đàn khác ngoài Israel (Ga 10,1), như con người kéo lôi tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (Ga 12,32; 6,44).

Vì vậy mẻ cá kỳ lạ bắt được do một nhóm các môn đệ, dưới sự chỉ huy của Phêrô, theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu là hình bóng mở mang Giáo Hội.

Lưới không rách là hình ảnh của Giáo Hội, sự hợp nhất, không bị phá vỡ do số nhiều (Mt 13,57-60). Những con cá là hình ảnh các Ki-tô hữu đã được chinh phục do Chúa Giêsu bằng lời giảng qua các Tông Đồ.

  1. ‘Chúa Giêsu bảo rằng: các con hãy lại mà ăn”:

Dấu chỉ mẻ cá cũng như cách cư xử thân mật quen thuộc “các con hãy lại mà ăn” của Chúa Giêsu là những bằng chứng khiến cho các môn đệ nhận ra “là Chúa”, nên không ai dám hỏi “ông là ai? nữa”.

  1. “Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ …”:

Ở đây Chúa Giêsu lập lại cử chỉ như trong bữa tiệc ly người đã làm để tỏ bày cho các môn đệ nhận ra rằng Giêsu, Thầy mình, khi còn sống ở trần gian trước đây, thì bây giờ cũng là Giêsu, Đấng đã phục sinh từ cõi chết, đang hiện diện trước mặt các ông đây. Và như vậy, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho các môn đệ về sự hiện diện của Người sau khi phục sinh.

  1. “Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra…”:

Sự kiện này muốn nói các lần hiện ra khác mà Tin-Mừng nhất lãm kể lại xảy ra ở Galilê đều sau lần hiện ra nầy. Đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với nhóm các môn đệ. Hai lần trước được ghi lại nơi (Ga 20,19-31).

III. ÁP DỤNG:

  1. Áp dụng theo Tin Mừng:

Qua bài Tin-Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta, một đàng nhờ những dấu chỉ của những sự việc xảy ra trong lần thứ ba Chúa hiện ra ở đây để chúng ta xác tín vào sự Phục Sinh của Chúa, và đàng khác biết nhận thức sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội và trong đời sống của mỗi người chúng ta.

  1. Áp dụng thực hành:
  2. Nhìn vào Chúa Giêsu:
  3. Xem việc Người làm:

– Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ đang lúc đánh cá đánh động niềm tin của các môn đệ về sự phục sinh của Người. sự tiếp xúc với nhau là phương tiện gây lên tin tưởng thông cảm và hiểu biết nhau.

– Chúa Giêsu hiện đến lúc các môn đệ chưa nhận ra Người. Nhưng nhờ việc làm, lời nói và cử chỉ, các môn đệ nhận ra là Chúa. chúng ta cũng vậy lúc đầu chưa hiểu nhau, nhưng dần dà nhờ sự tiếp xúc nhận biết nhau qua những cử chỉ lời nói, việc làm và những tâm tình trao cho nhau. Cũng vậy, muốn tin nhận Chúa, chúng ta cũng cần tiếp xúc với Chúa thường xuyên bằng sự cầu nguyện, suy niệm, lãnh các phép Bí Tích.

  1. Nghe lời Chúa nói:

– Này các con có gì ăn không? Chúa có thể dùng đủ mọi cách thế: tha nhân, việc làm, các biến cố điềm trời, vạn vật và ngay chính bản thân mình để khơi dậy cho chúng ta cái nhu cầu cần đến Chúa vì không thấy mình là không có gì cả.

– “Hãy thả lưới bên hữu thuyền…”ý Chúa được thể hiện cho chúng ta đôi khi nó không hợp với lý lẽ của ta, nhưng vì đó là ý Chúa, chúng ta cứ thực thi thì sẽ thấy hiệu quả.

– “Các con hãy đem cá mới bắt được vào đây”Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết nhận ra những ơn Chúa ban để trình lên Người trong tâm tình cảm tạ và kính phục Chúa.

  1. Nhìn vào các môn đệ:
  2. Các môn đệ, do Phêrô khởi xướng đi đánh cá, nhưng đêm ấy chằng bắt được con cá nào. Con người sẽ bất lực với sức riêng mình. Nhưng nghe lời Chúa các ông thả lưới, các ông bắt được đầy cá. làm việc thuận theo ý Chúa bao giờ cũng sinh hiệu quả nhất là hiệu quả phần rỗi cho ta.
  3. Gioan và các Tông Đồ khác cũng nhận ra Chúa quả dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ. Chúng ta tìm được những dấu chỉ qua những cái kỳ lạ Chúa làm để tăng thêm niềm tin vào Thiên Chúa.