Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Cn 9,1-6; Ep 5,15-20; Ga 6,51-58
MỤC LỤC
1. Rước lễ
2. Mình Máu Thánh Chúa
3. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
4. Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta
5. Đức Kitô mẫu gương tình yêu
6. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời
7. Đức Kitô hiện diện
8. Thịt Ta là của ăn – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
9. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi
10. Tôi là Bánh
11. Bí tích Thánh Thể – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
12. Tôi Là Bánh Hằng Sống – Lm. GB. Văn Hào
13. Bánh Thánh Thể
14. Thánh Thể- Hiến Tế
15. Ai ăn Ta, sẽ sống nhờ Ta – Noel Quesson
16. Bánh hóa nhiều
17. Bánh Thánh Thể
18. Bánh Hằng Sống
19. Thánh Thể
20. Bánh hằng sống
21. Máu thịt Đức Giêsu là của ăn tâm linh – JKN
22. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh
23. Sự sống phát xuất từ việc trao ban sự sống
24. Chú giải của Noel Quesson
1. Rước lễ
Có một cô sinh viên, được đặc ân mỗi tuần mang Mình Thánh Chúa đến cho một cụ già sống lẻ loi và cô quạnh. Cô sinh viên đã kể lại như thế này: Sau khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh cụ, đọc lại bài Phúc Âm ngày Chúa nhật cho cụ nghe, rồi bàn bạc trao đổi với cụ về một vài điểm mà đoạn Phúc Âm ấy đã gợi lên. Tiếp đến là giây phút cụ trông đợi cả tuần lễ. Tôi và cụ cùng nhau đọc kinh Lạy Cha. Rồi tôi giờ Mình Thánh lên và nói với cụ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời tới dự tiệc Con Thiên Chúa. Và cụ đáp lại: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh. Đoạn tôi trao Mình Thánh cho cụ. Sau một vài phút thinh lặng, tôi giúp cụ cầu nguyện: Lạy Chúa, ước gì Mình Thánh Chúa mà cụ vừa lãnh nhận, mang lại cho cụ sức khoẻ phần hồn cũng như phần xác. Xin Chúa giải thoát cụ khỏi mọi khổ đau và bệnh tật, xin hãy dùng sức mạnh của Chúa mà nâng đỡ, chở che để cụ cũng sẽ được phục sinh trong cuộc sống mới vào ngày sau hết. Sau đó, hai người ngồi nói chuyện một lúc rồi tôi tạm biệt và hứa sẽ cầu nguyện cho nhau và hẹn gặp lại vào Chúa nhật tuần tới.
Câu chuyện đơn sơ trên cho chúng ta thấy loại đức tin mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có như lời Ngài đã nói qua đoạn Phúc Âm sáng hôm nay: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì kẻ ấy sống trong Ta và Ta sống trong kẻ ấy. Cụ già và cô sinh viên đều chứng tỏ đức tin của họ vào lời nói ấy của Chúa, bằng cách trao ban cũng như nhận lãnh Mình Thánh Chúa Giêsu, bằng cách cùng cầu nguyện chung với nhau.
Và như thế, việc rước lễ phải là một cảm nghiệm của đức tin, được thực hiện kèm theo lời cầu nguyện. Lúc rước lễ là như một viên kim cương. Còn thời gian trước và sau rước lễ là như một sợi dây vàng. Tự bản tính, viên kim cương vốn đã xinh đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng đẹp đẽ hơn nếu được gắn vào giữa sợi dây vàng và trở thành trung tâm điểm. Cũng thế, tự bản tính việc rước lễ là một cảm nghiệm tuyệt đẹp, nhưng nó sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp nếu được kèm theo những tâm tình cầu nguyện. Vậy chúng ta đã cầu nguyện thế nào trước và sau khi rước lễ? Tâm hồn chúng ta nghĩ gì khi tiến lên bàn thánh Chúa. Chúng ta có tâm sự với Chúa như với người bạn thân hay không? Chúng ta có biết cảm tạ Ngài, xin Ngài tha thứ và hướng dẫn chúng ta trên vạn nẻo đường đời?
Điểm thứ hai câu chuyện trên cho thấy đó là thứ tình thương Chúa muốn chúng ta phải có với tư cách là những Kitô hữu. Thực vậy, tình thương giữa cụ già và cô sinh viên là loại tình thương mà mỗi người chúng ta cần phải cố gắng vun trồng cho nhau. Và Bí tích Thánh Thể chính là một phương tiện giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với nhau hơn như lời thánh Phaolô đã viết: Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Vậy việc rước lễ có làm cho đời sống chúng ta dồi dào tình thương mến, nhất là đối với những người khổ đau và bất hạnh hay không? Nói cách khác, việc rước lễ có lôi kéo chúng ta đến gần Chúa và đến gần nhau hay không?
2. Mình Máu Thánh Chúa
Nếu hôm nay có ai đến bảo chúng ta rằng: Bạn hãy ăn thịt và uống máu tôi đi, bạn sẽ sống mãi không chết bao giờ, thì chắc chúng ta sẽ cho là người ấy mắc bệnh tâm thần.
Người Do Thái ngày xưa, kể cả các môn đệ, khi nghe Chúa Giêsu nói những lời lẽ tương tự cũng đã bảo nhau: Lời ấy chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi.
Thực ra người Việt Nam chúng ta có một cách nói khác: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Thực vậy, chén cơm là kết quả của công lao khó nhọc nơi người nông dân: từ lúc gieo xạ, tới lúc chăm sóc, phân bón, làm cỏ, trừ sâu và gặt hái. Bao nhiêu công đoạn là bấy nhiêu nhọc nhằn, có khi còn phải tủi nhục, đoạ đày dưới ánh mắt của những chủ điền độc ác. Chính nhờ mồ hôi nước mắt, nhờ những cay đắng nhọc nhằn ấy mà chúng ta được sống.
Mà không phải chỉ có mồ hôi nước mắt của nhà nông mà thôi. Khi cha mẹ tôi đổ mồ hôi kiếm sống nuôi tôi thì chén cơm trên bàn ăn mẹ xới cho tôi chính là một phần của máu thịt cha mẹ tôi sẻ bớt cho tôi. Tôi sống nhờ thịt máu các ngài.
Chúa Giêsu khi cầm tấm bánh bẻ ra và nói: Tất cả hãy cầm lấy mà ăn, thì Ngài đã nghĩ ngay đến cái chết của mình vì nhân loại, nên đã nói tiếp: Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.
Nếu sau việc làm này, nghĩa là nếu sau khi đã bẻ bánh và nói những lời ấy Chúa Giêsu không bị giết thì việc làm của Ngài chỉ là một chuyện đùa và không ai nhắc lại làm gì. Nhưng thật sự Ngài đã bị giết, bị mai táng và đã sống lại, bởi thế tấm bánh Ngài bẻ ra thực sự có ý nghĩa. Đó là chính thân thể Ngài bị giết để có thể trở thành của ăn của uống cho chúng ta.
Thật vậy, khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó biến thành máu thịt chúng ta. Chúng ta ăn thịt và uống máu Con Người thì thịt máu ấy trở thành thịt máu chúng ta. Người nên một với ta, ta nên một với Người hay nói cách khác, ta ở trong Người và Người ở trong ta. Và như thế, nếu Người sống đời đời thì ta cũng phải được sống đời đời như Người và với Người.
Do đó, nhờ Bí tích Thánh Thể chúng ta nhận được từ nơi Người chính sự sống của Người để có thể nói như thánh Phaolô: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi. Nếu thực sự Đức Kitô sống trong tôi thì điều đó phải được tỏ hiện qua tâm tình, lời nói và hành động của tôi. Bởi thế ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô mà không sống như Người đã sống, nghĩa là không yêu thương anh em như Người đã yêu thương thì kẻ đó đã thực sự rước lễ chẳng nên vì thịt máu Đức Kitô không biến thành thịt máu kẻ ấy. Người đã không ở trong họ và họ cũng chẳng ở trong Người và như vậy họ chẳng bao giờ được sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể không được lập ra chỉ để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành những kẻ đạo đức, mà chủ yếu đây là bí tích của yêu thương và hợp nhất. Bí tích mời gọi chúng ta biết chia sẻ cuộc sống với người khác. Bởi đó, kẻ chỉ biết ngồi ở bàn tiệc Thánh Thể mà không bao giờ biết ngồi vào bàn ăn với anh em, nhất là không biết dọn bàn ăn cho anh em mình, thì đó là kẻ chưa hiểu được ý nghĩa của bí tích này và cũng chẳng hưởng được hồng ân nơi bàn tiệc của Chúa.
3. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì “thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết”. Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: “Mạng sống quý hơn đống vàng”.
Vì yêu thương con người trên hết mọi sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng, đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha” (Ga 6,57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên Bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6,51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6,54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu Chúa Giêsu, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân, một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy” (trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa:
“Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
4. Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta nên Ngài muốn ban cho chúng ta món quà cao quý nhất.
Nhưng thưa ông bà anh chị em, nếu giờ đây Chúa hiện ra và phán với mỗi người rằng: “Ta sẽ ban cho các con món quà quý báu nhất”, thì chúng ta sẽ xin Ngài điều gì? Xin vài tấn gạo? Có nhiều điều khác giá trị hơn gạo. Xin tiền? Vài tỉ bạc cho mỗi gia đình? Còn nhiều điều khác quý hơn tỉ bạc. Xin một tấn vàng ròng? Còn có điều quý hơn vàng bạc, hơn bảo ngọc trân châu. Đó là sự sống! Ông bà chúng ta thường nói: “Mạng sống quý hơn đống vàng”. Được sống là một may mắn vô cùng, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Nhà văn Jack London nói: “Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết”. Đúng vậy. Làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Dù mất hết tiền bạc của cải, nhưng còn được sống thì cũng còn may.
Nhưng sự sống cũng có nhiều đẳng cấp khác nhau.
Sự sống của cây cỏ vốn thấp kém, hầu như vô tri vô giác. Cây cối không biết khóc, không biết cười, không biết đau đớn cũng như mừng vui, lại phải chôn chân một chỗ cho đến lúc lụi tàn.
Sự sống của các loài côn trùng như giun, như sâu bọ, như kiến… tuy cao hơn loài thảo mộc một chút nhưng còn ở đẳng cấp thấp.
Sự sống của cá nước, chim trời, của loài cầm thú cao hơn sự sống của cỏ cây, của côn trùng, nhưng vẫn chưa phải là mức sống cao.
Sự sống của con người cao vượt hơn cả: hơn sự sống của hoa lá cỏ cây, hơn sự sống của côn trùng, hơn sự sống của chim trời cá nước, hơn sự sống của các loài muông thú, nhưng dù vậy vẫn còn thua sự sống của các thiên thần và còn thua xa sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa là sự sống cao quý vô song.
Sự sống con người cao quý thật, nhưng tiếc thay, sự sống ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho tổn thương, làm cho khiếm khuyết và giới hạn. Khiếm khuyết vì bệnh tật, vì già yếu, và giới hạn bởi cái chết.
Thế nên Thiên Chúa nhân lành tiên liệu ban thêm cho loài người sự sống khác, vô cùng phong phú, vô cùng cao quý, và không bao giờ cùng tận, đó là sự sống của chính Ngài. Thiên Chúa lấy chính sự sống của Mình làm quà tặng cho loài người khốn hèn tội lỗi! Có ai hiểu nổi không?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta điều đó.
Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
Phẩm chất của sự sống Chúa ban là vĩnh cửu, không thể lụi tàn.
Và sự sống nầy chính là sự sống của Chúa Cha: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.”
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng Sự Sống mà Ngài đã nhận được từ nơi Chúa Cha, thì Ngài thông ban lại cho chúng ta. Sự sống thần linh bắt nguồn từ Chúa Cha, thông truyền cho Chúa Con và Thánh Thần, giờ đây lại được Chúa Giêsu khơi dòng để chảy tràn vào mỗi người chúng ta, nếu chúng ta ăn Ngài, tức là đón nhận Ngài, rước lấy Ngài trong Bí tích Thánh Thể.
“Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.”
Thật tuyệt vời không thể tưởng tượng được. Thiên Chúa thông ban sự sống cao quý của chính Ngài cho chúng ta qua Chúa Giêsu.
Món quà vô cùng quý báu, vượt xa tất cả mọi món quà đã được Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho chúng ta. Chúng ta hãy mau mau nhận lãnh món quà quý báu này với tất cả tấm lòng cảm tạ tri ân, đồng thời hãy cầu xin Chúa cho sự sống thần linh ấy thực sự trổ sinh hoa trái dồi dào trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
5. Đức Kitô mẫu gương tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ngày 24.06.2009, tại phòng trọ ở thành phố Tuy Hòa, 2 bình gas loại du lịch đã phát nổ khiến Tuyên và một bạn cùng phòng bị bỏng. Với tình trạng bỏng nặng tới 65%, các bác sĩ đã dự đoán cô gái này khó có thể qua khỏi, đặc biệt là ở thời điểm sau 10 ngày nằm viện, Tuyên được chẩn đoán là bị nhiễm trùng máu khá nặng.
Thương con, người cha là Lê Thanh Tuấn đã năn nỉ các bác sĩ lóc da đùi của mình để cấy ghép vào phần da bị mất do bỏng của con, dù chuyện này rất có thể sẽ đem đến biến chứng nguy hiểm cho người bị huyết áp cao như ông. Nếu những chuyên gia phẫu thuật của bệnh viện Chợ Rẫy không từ chối, thì có lẽ ông Tuấn đã sẵn sàng để họ lấy cả phần da từ bụng, ngực… trên người mình để đắp sang con.
Sự hy sinh của người cha đã được phần nào đền đáp khi sức khỏe của bé Út dần khá hơn. Cô nữ sinh đã tỉnh táo hơn và có thể trò chuyện được đôi lời. Còn ông Tuấn, sau nhiều ngày rất khó khăn trong từng bước đi vì toàn bộ lớp da hai bên đùi đã bị lấy hết, cũng đã dần ổn định và có thể cử động được.
Đến phòng bệnh tại khoa Bỏng của Bệnh viện Chợ Rẫy vào những ngày này, gần như ở thời điểm nào trong ngày, người ta cũng sẽ nhìn thấy cảnh một cô gái băng bó trắng toàn thân nằm trên giường. Bên cạnh cô là người cha bó quanh đùi bằng những sợi băng y tế bị nhuộm đỏ. Ông luôn ngồi đó, động viên chăm sóc cho cô con gái vẫn mang trong mình mong muốn được thi đại học, khối C .
Vâng, nếu chúng ta được tận mắt nhìn thấy những hình ảnh đó, có lẽ chúng ta cũng để cho dòng nước mắt của tình người dạt dào tuôn trào nơi chúng ta. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà nhịp với trái tim yêu thương của người cha lóc thịt cho con. Khóc vì ngưỡng mộ một con người giàu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban chính thịt máu mình để cấy trồng lại sự sống cho con.
Đó cũng là tình yêu mà Đức Giêsu đã thể hiện trong cuộc sống của Ngài. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”. Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết. Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu được vui lòng. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món quà được trao tặng không có tình yêu chỉ là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự trao đổi qua lại theo lẽ công bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Bởi thiếu trách nhiệm người ta giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc. Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói rằng: “Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống”. Biết để né tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống “biết để sống” đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình nên không có sự sáng tạo trong yêu thương. “Biết để sống” dẫn đến đa nghi nên thế giới chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc. Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Amen.
6. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu nói “thịt Ngài thật là của ăn và máu Ngài thật là của uống”, và hơn nữa, “ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”.
Kitô hữu tin rằng bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thực là mình và máu Đức Giêsu Kitô Phục Sinh. Với giác quan, con người vẫn thấy đó là tấm bánh và rượu, nhưng với con mắt đức tin, đó là mình máu Chúa Giêsu Kitô. Đây không là phép lạ, vì nếu là một phép lạ, thì mọi người đã nhận biết đó là thịt máu Đức Giêsu, và con người không thể chối cãi được; chẳng hạn một số người nhận được phép lạ chữa lành bệnh tật ở Lourdes, người ta không thể phủ nhận điều này. Bánh rượu sau truyền phép là một bí tích, nghĩa là, là một dấu chỉ hữu hình để Thiên Chúa ban ơn sủng thiêng liêng cho con người.
Bí tích Thánh Thể không đơn thuần là dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để ban ơn thiêng liêng, nhưng còn là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa. Biểu tượng là dấu chỉ liên hệ mật thiết với điều dấu chỉ trỏ tới, và cũng là chính thực tại, chẳng hạn thân xác là biểu tượng của con người toàn diện. Bánh rượu nuôi sống và làm hoan lạc con người, Bí tích Thánh Thể, mình và máu Đức Giêsu Kitô, cũng nuôi sống và làm hoan lạc con người, thể chất và tinh thần.
Bí tích Thánh Thể cho thấy Lời Thiên Chúa tiếp tục tự hủy cho con người được sống. Lời Thiên Chúa đã tự hủy, nhập thể làm người, giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được tôn vinh, thế nhưng Ngài vẫn tiếp tục tự hủy nơi Bí tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành mình máu Đức Giêsu Kitô: ôi vật chất sao được diễm phúc đặc biệt này. Lời Thiên Chúa tự hủy cho con người thấy nét đẹp và cao quý của thân xác, điều mà nhiều người tưởng rằng thân xác là cái gì kém giá trị. Bí tích Thánh Thể cho thấy vật chất cũng là cái gì tuyệt vời, vì Lời Thiên Chúa nhập thể đã dùng để làm nên mình máu thánh Ngài.
Bí tích Thánh Thể, mình máu thánh Đức Giêsu Kitô, là bánh ban xuống bởi trời. Là lương thực ban cho con người sự sống vĩnh cửu. Bí tích Thánh Thể là bánh hằng sống đối với những người tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Với những người này, chính qua Bí tích Thánh Thể mà các tín hữu được quy tụ, để họ được nghe Lời Chúa và được rước mình và máu Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi sống đời sống thiêng liêng của họ, củng cố đức tin của họ vào Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, giúp họ sống bình an hạnh phúc trong những ngày ở dương gian này.
Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, vì Thánh Thể là chính mình máu Ngài. Nơi Bí tích Thánh Thể, người ta đọc thấy tình yêu của Đức Giêsu đã hiến mạng sống cho con người, cho những ai tin vào Ngài. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình (Ga.15, 13). Đức Giêsu đã hiến mạng cho con người, và điều này được thấy một cách cụ thể qua qua Bí tích Thánh Thể khi Đức Giêsu nói: “các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị nộp vì anh em… Này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội”. Bí tích Thánh Thể là chính mình máu thánh Người, được ban tặng cho con người, để trở thành bánh ban sự sống, để trở thành giá cứu chuộc con người. Con người thật là tạo vật được Thiên Chúa quý trọng biết bao, vì nó đã được Đức Giêsu hiến mình cứu chuộc.
Với Bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách bí tích nhưng thật cụ thể đối với những người tin. Thiên Chúa ở với con người qua Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu; giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang ở với con người tuy dù con người không thể thấy Ngài bằng mắt trần, và rồi Ngài đang hiện diện với tín hữu cách đặc biệt nơi Bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cụ thể với con người. Thiên Chúa luôn ở với con người, và Ngài còn luôn ở lại với con người một cách cụ thể qua bí tích tình yêu này.
Khi một người nhận lãnh lương thực nuôi thân xác, lương thực được biến hóa thành thịt máu người nhận; khi một Kitô hữu đón nhận mình và máu Đức Giêsu Kitô vào lòng, Đức Giêsu Kitô làm cho người lãnh nhận được trở nên một với Ngài, được thần hóa nhờ Ngài. Mình máu Đức Giêsu Kitô thánh hóa Kitô hữu, làm Kitô hữu trở nên thánh một khi họ rước mình và máu Ngài. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Bí tích Thánh Thể, thần lương quy tụ, gầy dựng, và nuôi dưỡng Giáo hội. Ước gì mỗi Kitô hữu nhận biết giá trị vô lường của Bí tích Thánh Thể, để trân trọng và hân hoan đón nhận bí tích cao quý này mỗi ngày, để Bí tích Thánh Thể trở thành nguồn sống cho cá nhân và cộng đoàn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống hạnh phúc không?
2. Theo kinh nghiệm sống, Bí tích Thánh Thể ảnh hưởng trên đời bạn thế nào?
7. Đức Kitô hiện diện
Thân xác cần phải ăn uống thì mới sống được. Một chút thực phẩm dự trữ cũng đủ để người bị lạc trong rừng sống thêm đôi ba ngày. Một chút nước trong sa mạc cũng giúp kéo dài thêm sự sống.
Con người, như chúng ta đã biết, không chỉ là thân xác mà còn là tinh thần. Và tinh thần cũng cần phải được nuôi dưỡng để tồn tại và phát triển. Người ta đã nói đến những món ăn tinh thần như sách báo, nghệ thuật… Chúa Giêsu còn muốn cung ứng cho chúng ta một món ăn tinh thần cao quí và tuyệt hảo hơn nhiều, đó là chính bản thân Ngài, bởi vì Ngài muốn trở nên lương thực nuôi sống nhân loại.
Thế nhưng, làm sao Ngài lại có thể cho chúng ta ăn thịt Ngài và uống máu Ngài? Tôi xin thưa Ngài đã dùng quyền năng mà biến đổi tấm bánh và chén rượu trở thành thịt và máu thánh Ngài, để khi ăn tấm bánh và uống chén rượu, chúng ta được kết hiệp với chính con người của Ngài. Như thế, khi rước lễ, chúng ta không lãnh nhận một Đức Kitô đã chết và nay chỉ còn là một cái xác không hồn. Trái lại, chúng ta đón nhận một Đấng đã sống, đã chết và đã sống lại, hiện đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Thánh Gioan đã diễn tả:
– Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.
Mà ở trong Chúa, chắc hẳn cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Cũng vì xác tín như vậy, mà Giáo hội luôn tỏ lòng kính trọng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Sau khi truyền phép, vị linh mục nâng cao mình và máu thánh Chúa, để chúng ta thờ lạy.
Ngoài ra, Giáo hội còn tổ chức những cuộc rước kiệu, chầu phép lành, các đại hội Thánh Thể trên toàn thế giới. Đức Kitô đến với chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và Ngài cũng còn đến với chúng ta dưới nhiều hình thức khác nữa.
Khi tham dự thánh lễ cùng với cộng đoàn, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài giữa lòng Giáo hội:
– Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Giáo hội là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Thân mình này được nuôi dưỡng bởi mình và máu thánh Ngài. Như thế, chúng ta cần ý thức về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Giáo hội.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn hiện diện khi chúng ta lắng nghe lời Ngài. Chính ngài nói với chúng ta, khi chúng ta đọc Kinh Thánh trong Giáo hội. Nơi Thánh lễ, chúng ta thấy bàn tiệc mình máu thánh Chúa và bàn tiệc lời Chúa. Đó không phải là hai bàn tiệc tách biệt, vì trong Thánh lễ, cả lời Chúa lẫn mình Chúa được dọn ra trên một bàn ăn, để giáo dân được hướng dẫn và bổ sức.
Chúa Giêsu không phải chỉ ở ngoài chúng ta, nhưng Ngài còn ở trong chúng ta. Ngài ở trong trái tim, Ngài ở trong cõi lòng chúng ta. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta quên đi sự hiện của Ngài nơi chính bản thân mình. Chúng ta quên rằng bản thân mình cũng là một nhà tạm, một đền thờ cho Chúa ngự trị. Không phải chỉ khi lên rước lễ, Ngài mới bắt đầu hiện diện trong chúng ta và lúc đó chúng ta mới có thể gặp gỡ Ngài. Thật ra Chúa luôn ở với chúng ta, và lúc nào ta cũng có thể trở về với lòng mình để gặp gỡ Ngài.
Sau cùng, Chúa Giêsu còn hiện diện ở bên ngoài nhà thờ, nhất là nơi những người bất hạnh, đau khổ, đói khát, ốm yếu, trần trụi… Họ cũng là những bí tích của Đức Kitô. Ẩn dưới tấm bánh là mình thánh Chúa. Còn ẩn dưới những kẻ sống bên lề xã hội là Đức Kitô thiếu thốn đang xin trợ giúp. Cần phải có cặp mắt đức tin để khám phá ra sự hiện diện của Chúa nơi những thực tại của đời thường. Ngài không quen đến với sự hào nhoáng và vinh quan hiển hách. Ngài đến với chúng ta với thận phận của một con người yếu đuối.
Hãy khiêm nhường để tìm thấy sự hiện diện khiêm tốn của Chúa, nhờ đó biến đời mình trở thành một cuộc gặp gỡ liên tục với Ngài.
8. Thịt Ta là của ăn – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gen” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.
Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.
Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.
Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.
Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.
Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống Bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?
3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?
4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?
9. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết
nhưng tôi muốn con tôi được sống”
Đó là lời của bà Susanna sau khi được cứu
trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng 12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch,
có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn sống sót.
Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước.
Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có lối ra?
Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩ táo bạo,
đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút.
Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ.
Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu truyện trên giúp ta hiểu phần nào Bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống.
Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá,
và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng sinh,
thường có những người ngoài Kitô giáo đến dự lễ.
Cũng có ít người tò mò lên “ăn bánh thánh”.
Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh, nhạt nhẽo.
Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu chúng ta bảo họ:
“Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa,
uống chén rượu đó là uống máu Chúa”.
Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu.
Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài.
Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho nhân loại:
“Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy.
Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy.”
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con người Đức Giêsu.
Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt mình Ngài,
mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị:
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi
và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác chết,
nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và nay đã phục sinh.
“Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy” (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang sống,
cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ.
Ngài không hiện diện dưới dạng một con người,
nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được nâng lên,
cả lao công của con người cũng được thánh hiến.
Vật chất trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Vật chất có chỗ trong thế giới của Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta
cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ “sống”. Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ…
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa.
10. Tôi là Bánh
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước Bí tích Thánh Thể.
Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá – ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51). Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không? Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình. Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ.
Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57).
Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước. Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên.
Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn. Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa… Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Đức Giêsu tự định nghĩa mình là Cửa (10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46), là Con Đường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Tấm Bánh (6,48). Những định nghĩa rất gợi hình và đều hướng về con người. Bạn thích định nghĩa nào hơn cả? Tại sao?
Bạn nghĩ gì về việc bạn rước Chúa? Có cái gì không ổn, cần sửa đổi không? Có khi nào bạn thấy mình gặp được Chúa sau khi rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường. Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi. Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người. Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại, và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay: đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực. Nhờ ăn tấm bánh của Chúa, chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon, được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người. Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình, để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên. Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động, đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. Amen.
11. Bí tích Thánh Thể – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách Phương Ngôn, cũng gọi là sách Châm Ngôn, bao gồm những lời huấn dụ khôn ngoan của vua Salômôn, con vua Đavít. Sách Châm Ngôn giúp con người tìm biết lẽ khôn ngoan và hiểu được những lời cao siêu của các bậc hiền nhân. Sách này giúp chúng ta tìm mở lòng mở trí và học hỏi thêm kiến thức. Kính sợ Thiên Chúa là bước đầu của kiến thức. Lời mời gọi khôn ngoan: Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta và hãy uống rượu ta đã pha sẵn cho các ngươi (Cn 9,5). Bánh và rượu đây là thức ăn quý báu dành cho những kẻ đơn sơ chân thành. Bánh sẽ mang lại sự no thỏa thân xác và rượu sẽ làm hoan hỉ lòng người. Được cùng chia sẻ bữa tiệc là cùng được chung hưởng niềm hoan lạc cuộc sống.
Của ăn trao ban qua bánh rượu và các bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch. Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6,51). Chúa Giêsu không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6,54-55). Thịt và Máu của Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo hội đã trải qua rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo hội đã cử hành các nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” (Lc 22,19). Giáo hội ở khắp năm châu, bốn biển trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể để tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể. Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý, trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Khi linh mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt. Sự lưu trữ Thịt và Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo hội đã xây nhà thờ khang trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó, thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà Công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra. Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả, Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo hội để chứng minh sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Thực ra, giáo lý về Bí tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học của các Kitô giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công giáo có những quan niệm thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm tin trong đạo Công giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí tích Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa Tiệc Ly. Niềm tin của Giáo hội Công giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta…Đây là Máu Ta… thì bánh và rượu trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Ep 5,20). Thừa hưởng gia tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan (Ep 5,15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6,58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời đời. Amen.
12. Tôi Là Bánh Hằng Sống – Lm. GB. Văn Hào
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: “ Mọi bí tích của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng” (số 8). Lời khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của Bí tích Thánh Thể trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu.
Suốt bốn tuần qua, chúng ta đã suy gẫm bài diễn từ về “Bánh” trong chương 6 của tin mừng thánh Gioan. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta một lần nữa lắng đọng tâm hồn để tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.
Bàn tiệc tình yêu.
Thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã hóa thành xác phàm” (Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện diện cách nhiệm mầu nơi Bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu. “Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài”. Ngài đã đến cắm lều giữa chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài. Đây cũng chính là bữa tiệc mà sách Khôn ngoan nhắc tới trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng: “ Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước khi Ngài đi thụ nạn: “Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu”.
Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này, chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: “Bánh mì nuôi sống con người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu”. Bao tử con người thích hợp với bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói “Tôi là Bánh trường sinh”, bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.
Bàn tiệc đức tin.
Mỗi khi chầu Thánh Thể, chúng ta mượn lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: “ Đây nhiệm tích vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù lại”. Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc. Chúa Giêsu đã nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời” (Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị: “Ai tin vào con của Người, sẽ được trường sinh” (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn tả của một thực tại duy nhất: Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều kiện tất yếu cần phải thể hiện, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.
Tin không phải là một động thái mang tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở “Đây là mầu nhiệm đức tin”. Qua lăng kính đức tin chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới tham dự.
Bàn tiệc hiệp thông.
Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp thông trong từng mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể nào. Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp thông này. Tác giả sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu “luôn chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu “Ut unum sint” (Xin cho chúng nên một).
Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ khá đặc biệt ở Bolivia thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện, sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao tay lên cùng với lời cầu nguyện: Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn tan nát và bầm dập của chúng con. “Lạy Chúa xin thương xót chúng con.” Cả cộng đoàn lặp lại: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Đến phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu. Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu Con Chúa. Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau hơn”.
Kết luận
Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề “Năm chiếc bánh và hai con cá” để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ… nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối nhất nơi ngục tù. Còn những thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao? Đặc biệt đối với anh em linh mục là những “alter Christus”, đã hàng trăm, hàng ngàn lần cử hành thánh lễ “in personna Christi”, chúng ta đã dâng các thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em trong cộng đoàn “Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế”.
Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh này.
13. Bánh Thánh Thể
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài đọc 1 trích sách Châm Ngôn: “Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế”. Theo lời sách Châm Ngôn, bánh và rượu đây là Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan được “thiên cách hóa” như chính Thiên Chúa: “đừng ngây thơ dại khờ nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết”.
Tin Mừng thánh Gioan chương 6 cho thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Đức Khôn Ngoan Nhập Thể, là Bánh Hằng Sống, “Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Trang Tin Mừng hôm nay là đỉnh cao của mạc khải Đức Khôn Ngoan Nhập Thể trở thành Bánh Thánh Thể.
Chúa Giêsu khẳng định: “Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Người Do Thái phản ứng và tranh luận sôi nổi: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Chúa Giêsu giải thích và khẳng định thêm: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Chúa Giêsu cho biết hiệu năng khi “ăn thịt và uống máu” là được kết hiệp mật thiết với Chúa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu năng của Manna mới: “Tổ tiên các ngươi đã ăn mana và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”.
Những lời Chúa Giêsu giảng dạy mạc khải rõ ràng về Bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể được Chúa tiên báo trong tiệc cưới Cana, được hứa ban cho dân ở Caphacnaum.
Bí tích Thánh Thể được Chúa thiết lập trong Tiệc Ly: “Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán: Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con. Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. (Mt 26,26-29).
Bí tích Thánh Thể được Chúa cử hành đầu tiên tại làng quê Emmau “Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh” (Lc 24,13-35).
Thánh Thể là sự sống của Giáo hội, là lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa Tiệc Ly. Từ đó, Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo hội, là trọng tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo hội. Thánh Thể làm nên Giáo hội. Không có Thánh Thể thì không có Giáo hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng một tấm bánh là thân mình Đức Kitô (1 Cr10,17). Như thế bàn tiệc Thánh Thể là nguồn mạch của yêu thương, cảm thông và hiệp nhất.
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc linh mục Truyền Phép:
– “Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
– “Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III).
– “Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18,20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói: “Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống…” (Mt 25,35- 36). Trái lại nơi Bí tích Thánh Thể, sau Lời Truyền Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong Bí tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của Chúa Thánh Thần làm khi linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x.simonhoadalat.com, Tặng phẩm Thần Linh, ĐGM Bùi Văn Đọc).
Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của tình yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian nỗi ban chính Con Một…” (Ga 3,16) và Con Một là Chúa Giêsu đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường, nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên các tín hữu: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha”, đồng thời: “Hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời gian hiện tại… hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa… hãy thấm nhuần Thần Khí”. Ý Thiên Chúa muốn chúng ta sống yêu thương như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học được nhiều điều từ Bí tích Tình Yêu.
14. Thánh Thể- Hiến Tế
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cha Piô, tu sĩ dòng Capucinô, ở Itala, mới được phong thánh năm 2004, là vị linh mục đầu tiên đã được in 5 dấu thánh. Ngài là linh mục và đặc ân của Ngài, do thánh chức, là ở toà giải tội và nhất là trên bàn thờ dâng lễ. Cha dâng lễ lâu đến ba tiếng rưỡi đồng hồ. Ai dự lễ do cha Piô làm đều say sưa, sốt sắng, không biết mỏi mệt. Ngài sống mầu nhiệm Chúa hiện diện trên bàn thờ trong Bí tích Thánh Thể. Sau khi dâng Mình Thánh Chúa, thảm kịch tế lễ càng diễn tiến như dưới chân Thánh Giá xưa. Mồ hôi nhỏ giọt, nước mắt dầm dề. Ngài đọc lời truyền phép như một người đang hấp hối, đau khổ tột độ. Ngài cầm Mình Thánh giơ lên, những đường máu từ từ rơi theo dấu ngón tay. Rồi ngài hớn hở như được thấy Chúa. Ai không tin sự hiện diện của Chúa trong hình bánh hình rượu, hãy đến dự thánh lễ cha Piô sẽ biết, sẽ cảm nghiệm. Để Thánh lễ đừng kéo dài quá lâu sau truyền phép, cha bề trên tu viện núp trong cung thánh, phải ra lệnh bằng ý muốn cho ngài tiếp tục (Le vrai visage du Padre Pio, Maria Winowska,Fayard).
Anh chị em thân mến,
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đi xa hơn nữa trong mạc khải của Ngài về Bánh Hằng Sống. Không những Chúa Giêsu đói buộc phải tin vào Ngài, nhưng Ngài còn đòi buộc phải ăn bánh là chính Mình Ngài, phải uống chén rượu là chính Máu Ngài. Bánh và rượu chính là Thịt và Máu của Ngài. Bánh và rượu này liên hệ đến cái chết của Ngài, cho đến độ không có cái chết của Ngài trên Thập Giá, thì Bánh ngày không thể là Thịt của Ngài và Rựơu này không thể là Máu của Ngài. Vì vậy, Bí tích Thánh Thể vừa là lễ tế hy sinh của Chúa Giêsu trên Thập Giá, vừa là bữa tiệc Thịt và Máu của Ngài, dưới hình thức bánh và rượu. Vì thế, Thánh Thể trước hết là một hy lễ. Chính là máu của Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội. Chính là cuộc tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá.
Đoạn Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh Thể Chúa Giêsu đã cử hành vào những giờ phút cuối cùng của đời Ngài, trước lúc Ngài bị bắt và chết trên Thập Giá. “Trong bữa ăn tối, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, chúc tụng, rồi bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: Các con hay cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy. Rồi cầm lấy chén rượu, tạ ơn, Ngài trao cho họ mà nói: Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là chén Máu Thầy, máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội” (Mt 26,26-28). Thánh Phaolô còn nói rõ: “Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, là anh em loan báo cái chết của Chúa Giêsu cho đến khi Ngài lại đến” (1Cr 11,26).
Chúng ta phải đọc những lời thiết lập Bí tích Thánh Thể dưới ánh sáng của những lời khẳng định của Chúa Giêsu về Bánh ban sự sống. Ngài đã tuyên bố một cách thẳng thừng Ngài là gì và người ta phải quan hệ với Ngài như thế nào để có được sự sống của Thiên Chúa. “Tôi là Bánh ban sự sống… Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì sống mãi trong Tôi, và Tôi sống mãi trong người ấy”. “Tôi sống như thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Thịt và Máu Chúa Giêsu là của ăn, của uống làm cho người ta “sống trong Chúa Giêsu” và làm cho Chúa Giêsu “sống trong người ấy”. Người dùng thức ăn, thức uống này thì được “sống nhờ Chúa Giêsu”, sẽ được “sống lại trong ngày sau hết” và được “sống đời đời”.
Thưa anh chị em,
Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, tình yêu liên hệ với sự sống: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Không có sự sống thì cũng không có tình yêu. Thiên Chúa đã cứu chúng ta khỏi chết để chúng ta được sống để chúng ta được sống và được sống với Ngài. Bánh Ngài ban tặng chúng ta là bánh ban sự sống đời đời, là dấu chỉ của tình yêu, là dấu chỉ của chính Thân Thể Ngài hy sinh cho nhân loại. Tấm bánh bẻ ra hay là Chúa Giêsu Kitô hy sinh chịu chết vì chúng ta, đó chính là bằng chúng của tình yêu cao cả nhất: “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu hiến thân mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Vì vậy, Bí tích Thánh Thể được coi là Bí tích của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và yêu là muốn kết hợp với người yêu. Yêu là muốn điều tốt, muốn cho người yêu được sống dồi dào, và trong tình yêu có sự đòi buộc phải hy sinh.
Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu của Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Từ khi nhập thể làm người cho đến lúc gục đầu trên Thập Giá. Chúa Giêsu chỉ có một khắc khoải là minh chứng tình yêu cho nhân loại. Ngài muốn loài người được sống và sống dồi dào. Đâu là Bí tích Thánh Thể của Chúa Giêsu, bí tích của một tình yêu tận hiến. Chúa ban sự sống của Ngài cho chúng ta để chúng ta kết hợp với Ngài và được sống dồi dào nhờ cái chết cứu độ của Ngài.
Thế nhưng, được kết hợp với Ngài để làm gì? Được sống dồi dào để làm gì? Được sống kết hợp với Chúa để tiếp tục sống tình yêu như Ngài. Được kết hợp với Chúa để tiếp tục hoạt động với Ngài để đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Được kết hợp với Chúa Cha ở mọi nơi. Được kết hợp với Chúa để phục vụ cho anh em được sống dồi dào hơn qua cuộc tận hiến chính cuộc đời của mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu tiếp tục hiến mình làm bánh, là lương thực nuôi sống Giá hội, nuôi sống chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được cử hành hằng ngày, hằng tuần… Và mỗi người chúng ta cũng như cộng đoàn được mời gọi tiếp rước Mình và Máu của Chúa. Nhưng tiếp rước ở đây không phải chỉ là ăn uống Mình và Máu của Chúa Giêsu mà thôi, mà còn phải là tiếp rước chính Chúa Giêsu với cả cuộc đời và sứ mạng của Ngài, để họa lại ý nghĩa của cuộc đời và sứ mạng đó trong chính cuộc sống của mình. Do đó, rước lễ đích thực không thể tách rời khỏi việc tìm hiểu trong Lời của Chúa, trong cuộc đời của Ngài bài học về cách xử sự, về sự lựa chọn, về sự hy sinh, về lòng yêu mến người khác cho chính cuộc đời của mình. Đó là cách thức để người Kitô hữu sống bằng Thịt và Máu của Chúa, sống nhờ Chúa và qua đó, được sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể của Chúa Giêsu phải được nhân lên qua cuộc sống của các tín hữu. Bao lâu chúng ta còn sống hữu ích cho anh em, còn tìm cách làm cho cuộc sống của những người chung quanh bớt nghèo, bớt đói, bớt khổ… là chúng ta đang tế hiến mình với Chúa Kitô Thánh Thể. Chúng ta trở thành bánh ngon để nuôi sống anh em. Lúc đó, chúng ta mới dâng lên Thiên Chúa Bí tích tình yêu của chính bản thân mình mỗi lần họp nhau cử hành Bí tích Thánh Thể của Chúa Kitô.
15. Ai ăn Ta, sẽ sống nhờ Ta – Noel Quesson
Đanien Côn-neo (Daniel Connell) là người đã giải phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan. Ông là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi người ta cười nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin Bí tích Thánh Thể. Ông đã giải đáp: “Sao các ông lại hỏi tôi? Các ông phải hỏi Chúa Giêsu. Phần tôi, tôi chỉ tin như Chúa Giêsu đã nói. Nếu điều đó không đúng, thì Chúa mới là người đáng trách. Nhưng sự thật của Chúa thì muôn đời tồn tại”.
Niềm tin vào Bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta, phải xây dựng và chỉ có thể xây dựng trên Lời Chúa. Chúa là sự sống của ta và Chúa là căn bản lòng tin của ta. Chúa là lương thực nuôi hồn ta, Chúa liên kết với ta, thông chia sự sống nhiệm mầu của Người cho ta. Nếu chúng ta thấy xao xuyến, mệt mỏi bơ vơ, là tại chúng ta đã xa cách Chúa, tại chúng ta đã cách ly Chúa. Khi đó chẳng những chúng ta lạc lõng khốn cùng mà còn phải chết muôn đời nữa. Vì Chúa đã khẳng định: “Nếu các ngươi không ăn thịt, không uống máu Con Người, thì trong các ngươi không có sự sống” (Ga 6,53).
Khi nói về bánh hằng sống, Chúa Giêsu nói xen lẫn hai sự kiện: Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể. Chúa nói cả hai chuyện một lúc như vậy, cốt cho ta hiểu rằng cả hai chỉ là một. Tiếp nhận Chúa là đón nghe và làm theo Lời Chúa. Sống Lời Chúa cũng chính là việc ăn Mình, uống Máu Chúa trong Bí tích Thánh Thể, là cụ thể hóa Lời Chúa bằng bí tích Mình Máu Chúa, là hòa nhập sự sống ta với sự sống Chúa. Cũng như Thánh Lễ không phải là hai phần tách biệt mà chỉ là một: đó là mầu nhiệm Chúa Kitô dạy dỗ ta bằng Lời Chúa và Lời Chúa đi vào cuộc sống ta bằng chính Máu Thịt Chúa. Chúa trở nên huyết nhục chúng ta, để biến đổi sự sống ta thành sự sống Chúa, và rồi từ đó, Lời Chúa sẽ thành lời nói và hành động của ta. Ta sẽ là hiện thân Chúa Giêsu giữa trần gian.
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu biết ba tác dụng của Bí tích Thánh Thể: Trước hết là sự sống lại và cuộc sống vĩnh viễn: “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời, còn Ta, Ta sẽ cho người ấy sống lại ngày tận thế” (Ga 6,54). Trong bữa tiệc ly, Chúa đã nối kết tiệc Thánh Thể với tiệc Nước Trời: “Thầy sẽ không uống rượu nho này nữa cho tới lúc Thầy lại uống với các con trong Nước của Cha Thầy”.
Thứ đến là tình liên đới giữa Đức Kitô và các tín hữu: “Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người đó”. Ở trong Chúa là hưởng hạnh phúc với Chúa. Hạnh phúc lớn nhất là ở bên người mình yêu và được người đó yêu mình. Từ Cựu Ước đã có những lời diễn tả thực tại này: “Các ngươi sẽ là dân Ta và Ta là Thiên Chúa các ngươi” (Xh 6,7); “Người yêu của tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người” (Diễm ca 6,3); “Các con hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong các con” (Ga 6,56; 15,4).
Sau cùng là sự tận hiến cho Cha: “Như Chúa Cha hằng sống đã sai Thầy và Thầy sống nhờ Cha, cũng vậy, ai ăn Thầy sẽ sống nhờ Thầy”. Chúa Giêsu đã sống kết hiệp với Cha, Chúa cũng đòi ta hiệp nhất với Ngài như thế.
Lạy Chúa, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, chúng con hy vọng chắc chắn sẽ được sống lại và được sống muôn đời với Chúa. Xin giúp chúng con biểu lộ lòng tin này trong việc đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể, trong cuộc sống hiệp nhất với nhau và trong tình liên đới với mọi người.
16. Bánh hóa nhiều
Tôi còn nhớ, hồi nhỏ mỗi khi ăn cơm mà để những hạt cơm rơi vãi, thế nào cũng bị ba tôi giảng cho một bài luân lý giáo khoa thư.
Một hạt cơm mà thôi cũng do bởi biết bao công lao khó nhọc, như tục ngữ đã bảo:
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần.
Rất may là chúng ta chưa lâm vào cảnh đói kém, nhiều khi chỉ vì một nắm cơm mà người ta sẵn sàng làm những công việc đê tiện.
Trong những trại tù, thì giây phút quan trọng và cam go nhất của một ngày là lúc phân phát thực phẩm. Nhiều người chỉ sống cho giây phút này mà thôi. Sau khi đã lãnh phần ăn, họ đã nhìn vào chén cơm hồi lâu, rồi cẩn thận nhai nuốt với tất cả sự trọng kính.
Thế nhưng, cơm bánh chỉ là một hình ảnh tượng trưng, vì ngoài thân xác ra, con người còn có một linh hồn, linh hồn ấy cũng cần phải được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn thiêng liêng. Giữa của ăn vật chất và của ăn thiêng liêng có một mối liên hệ, tuy mầu nhiệm nhưng cũng lại rất hiện thực.
Cũng trong những trại tù, các linh mục âm thầm làm lễ giữa đêm khuya ngay trong chiếc mùng của mình. Rồi Mình Thánh được gói trong những mảnh giấy nhỏ và chuyển đến cho các bạn tù, nhờ đó mà những tù nhân Công giáo tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ.
Chúa Giêsu cũng đã biết rằng cái đói là một nỗi bất hạnh và con người luôn cần tới cơm bánh, vì thế Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng. Rồi từ đó Ngài đã giới thiệu thứ của ăn nuôi sống linh hồn, đó là thịt máu Ngài.
– Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máy Ta thì sẽ được sống đời đời.
Mặc dù đám đông trước đó đã nhiệt tình hoan hô Ngài và muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng với những lời lẽ như thế, họ đã bỏ Ngài, để rồi chỉ còn mình Ngài với các môn đệ.
Sự kiện này vẫn thường xảy ra qua dòng thời gian. Những kẻ không tin tưởng và cho rằng cái đói của linh hồn là một chuyện hoang đường, và họ đã bỏ Chúa mà đi. Còn chúng ta thì sao?
Điều quan trọng đó là chúng ta phải hiểu đúng ý định của Chúa và cố gắng thực hiện bằng cách siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ. Việc rước lễ đã ấn định một lằn mức phân chia những người tin và không tin.
Đúng thế, thánh lễ không phải chỉ là một đề mục trong cuộc sống người Kitô hữu, nhưng đúng là một phép lạ. Trong phần dâng lễ, linh mục đại diện cho tất cả chúng ta dâng tiến Chúa của lễ của cộng đồng. Trong phần truyền phép, qua tay linh mục, Chúa Giêsu đã biến đổi bánh rượu trở nên thịt máu Ngài, đó là giây phút trọng đại, qua đó Chúa tuôn đổ muôn vàn hồng ân của Ngài. Việc rước lễ là một bàn tiệc, để chúng ta được nhận lãnh của ăn nuôi sống linh hồn.
Nếu hiểu được như thế, thì mỗi ngày chúng ta hãy cố gắng thực hiện lệnh truyền của Chúa, đó là
– Các con hãy nhận lấy mà ăn… Các con hãy nhận lấy mà uống…
17. Bánh Thánh Thể
Trong một cuộc họp mặt đông đảo các Kitô hữu tại một nhà thờ ở Tây Đức để đón chào mẹ Têrêxa Calcutta, người ta đã dâng cho mẹ một bó hoa rất đẹp. Bỡ ngỡ trước lòng quý mến và trọng kính mà người ta đã dành cho mình, mẹ Têrêxa mới đầu tỏ ra hơi lúng túng, nhưng sau đó vài phút, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa đi thẳng lên cung thánh, mẹ quỳ gối nơi bậc bàn thờ rồi đặt bó hoa trước nhà tạm. Cử chỉ này cho thấy mẹ Têrêxa rất quý trọng phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã nhận được tình yêu và nghị lực cho cuộc sống dấn thân và phục vụ vô vị lợi của mẹ.
Qua các hoạt động bác ái, mẹ Têrêxa và các nữ tu dòng của mẹ đã nuôi dưỡng hàng ngàn trẻ em mồ côi, đã phục vụ hàng ngàn người nghèo đói, đã chăm sóc, chữa trị hàng trăm ngàn bệnh nhân và an ủi hàng chục ngàn người hấp hối. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoạt động nhằm phục vụ cho sự sống thể xác, mẹ Têrêxa đã đặc biệt chú trọng đến một nhu cầu mà mẹ thường nhấn mạnh và cho là căn bản, nó cần thiết hơn cả cơm ăn áo mặc nữa, nhu cầu đó là muốn được chấp nhận và được yêu thương.
Phép Thánh Thể có khả năng thỏa mãn nhu cầu cấp thiết đó, vì phép Thánh thể là một bằng chứng thật hùng hồn nhắc nhở và tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa đối với loài người và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gioan tông đồ đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của mình cho thế gian”. Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho biết: “Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình phận ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Cái chết của Ngài là một thực hiện lời Ngài mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời”. Bánh đó chính là thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ được tăng thêm ơn thánh hóa, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và với các anh chị em tín hữu khác, được tha các tội nhẹ và bảo vệ khỏi tội trọng, và bảo đảm được một hiệu quả vô cùng cao quý là sự sống lại và sự sống đời đời. Nhưng với điều kiện là chúng ta phải rước Mình Thánh Chúa với thái độ tin và yêu. Để biểu lộ thái độ tin và yêu ấy đối với Đấng đã, đang và sẽ còn tiếp tục tự hiến thịt máu mình để cho chúng ta ăn và uống mà được sống, chúng ta hãy để cho tình yêu của Chúa biến đổi chúng ta thành những khí cụ ban phát tình yêu Thiên Chúa cho mọi người như mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu thuộc dòng do mẹ sáng lập đang thực hiện khắp nơi trên thế giới.
Đó cũng là cách Chúa mời gọi chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa, đó là câu kết luận của câu truyện sau đây: Có một gia đình giàu có, quý tộc người Anh, dẫn đứa con trai yêu quý về miền quê chơi. Trong khi nô đùa, chẳng may em bị rơi xuống một hố nước sâu mà cha mẹ không hay biết. Nhưng rất may tiếng kêu cứu của em đã được một chú bé, con của người làm vườn nghèo khó nghe được và chạy đến cứu sống.
Cha của em tỏ lòng biết ơn chú bé đã cứu sống con ông, nhưng thay vì lời cám ơn, ông muốn giúp đỡ chú bé ấy. Ông hỏi: “Khi lớn lên con muốn làm gì?” – “Thưa ông, chắc là con sẽ tiếp tục nghề làm vườn của cha con” – “Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?” – “Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì được nữa” – “Nhưng nếu con được ước mơ thì con ước mơ gì?” – “Thưa ông, con muốn đi học, muốn là bác sĩ”.
Sau này, em bé được cứu sống đã trở thành một vĩ nhân của thế giới, đã giữ một vai trò quan trọng làm thay đổi cục diện thế chiến thứ II và đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị của ông, đó là thủ tướng Uyn-sân Chớc-chiu. Và nhờ lòng thương giúp đỡ của người cha của Chớc-chiu mà chú bé nhà nghèo kia đã trở thành một bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ đó là Phơ-len-ning, người đã tìm ra thuốc trụ sinh Pê-nê-ci-lin.
Sau khi kể xong câu truyện trên, tác giả đã kết luận: “Khi Chúa mời gọi chúng ta giúp đỡ nhau là Chúa mời gọi chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa”. Chúng ta hãy nhớ: Khi chúng ta giúp đỡ nhau là chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa. Trở lại bài Tin Mừng hôm nay, điều chính yếu Chúa Giêsu muốn bảo cho người Do Thái xưa kia và chúng ta hôm nay: Ngài là bánh hằng sống, vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, chính vì thế kẻ ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Chúa, họ sẽ được sống đời đời. Cho nên, người ta phải đón nhận Ngài không những bằng lòng tin mà còn phải ăn bánh đó, tức là ăn thịt Ngài nữa.
Chúa Giêsu dạy chúng ta về Bánh Thánh Thể, chúng ta có chấp nhận với lòng tin không? Nếu chúng ta không lãnh nhận của ăn này thì hậu quả sẽ ra sao? Tất nhiên là chúng ta không được “chất bổ” của thứ bánh bởi trời này, mà ngược lại, còn bị xét xử, đoán phạt, chết đời đời. Cũng như nếu chúng ta bệnh tật, thuốc men có đó mà chúng ta nhất định từ chối không dùng thì chúng ta không khỏi bệnh là tại chính chúng ta thôi. Cũng vậy, ai trong chúng ta cũng muốn ăn no, mặc ấm, mà còn muốn ăn ngon, mặc đẹp nữa, muốn gia đình hạnh phúc, kể cả những người đầy đủ cũng thế, họ vẫn mơ ước thêm nữa, vậy thì chúng ta muốn có sau 50, 60 hay 70 năm trần thế này được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với Bí tích Thánh Thể, hãy hết lòng tin vào phép Thánh Thể. Bánh Thánh Thể là của ăn cho chúng ta no ấm đi hết quãng đời này về trời.
Thánh Thể không phải chỉ là một lời hứa trường sinh bất tử nhưng còn là một bảo chứng: hôm nay thân xác chúng ta đã được dự tiệc Thánh thể, thì sau này thân xác chúng ta sẽ được dự tiệc thiên quốc. Tiệc Thánh Thể mới chỉ là khai vị chuẩn bị cho tiệc thiên quốc. Chúng ta hãy siêng năng rước lễ để bảo đảm cho cho cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
18. Bánh Hằng Sống
Nhà văn James Colaianni ghi lại một chuyện như sau:
Một gia đình nghèo khó nọ ở một làng thuộc nước Nam Tư đã định tâm di cư đến nước Hoa Kỳ. Gia đình này gồm ba mẹ, một em bé trai, và bốn em gái nhỏ. Trước khi đi, những người thân thuộc đã cho gia đình đó những món quà đơn sơ như bánh mì và một vài cục pho mát.
Ngày họ lên tàu, họ rất ngỡ ngàng với những cảnh ở thế giới bên ngoài. Ngày đó là một ngày mùa đông giá lạnh, nên sau khi lên tàu, họ liền chui xuống chỗ ngồi hạng ba ở gầm tàu. Họ đã ở đó và ăn những ổ bánh mì mà những người thân đã tặng cho họ lúc họ rời Nam Tư. Họ cố gắng ăn ít bao nhiêu có thể hầu có đủ lương thực cho chuyến đi đến Hoa Kỳ.
Ngày cuối cùng của cuộc hành trình, em bé trai cảm thấy mệt mỏi nên em đã xin phép ông bố để đi lên trên boong tàu nhìn ngắm cảnh vật.
Sau khi em bé đã đi cả một tiếng đồng hồ mà không thấy trở về, ông bố cảm thấy lo và đi lên boong tàu để kiếm em. Ông bố đã tìm thấy em bé đang ngồi trong một cái nhà cơm thật thịnh soạn và đang ngồi tại một cái bàn với đầy đủ đồ ăn thịt rau và trái cây.
Khi nhìn thấy như vậy, tim ông bố như bị ngừng đập. Trong tâm trí, ông đang nghĩ ra cái cảnh khi vừa đặt chân đến nước Hoa Kỳ, ông sẽ phải vô trong tù bởi vì ông quá nghèo không đủ tiền để trả cho những thức ăn mà người con trai của ông đang ăn.
Khi người con trai nhìn thấy bố mình hoảng hồn như thế liền nói: “Bố ơi, đừng sợ, bữa ăn này không mất tiền. Trong khi chúng ta ở dưới gầm tàu ăn uống thanh đạm thì mọi người trên tàu này đều ăn uống thả dàn như thế này. Các món ăn này đã được tính cả vào trong vé tàu của mình rồi.”
Trong thế giới này có biết bao nhiêu người nghèo khổ giống như gia đình nghèo khổ Nam Tư đó. Họ hành trình trong cuộc sống mà hoàn toàn không để ý rằng có một Bữa Tiệc Thần Thiêng. Đó là bữa tiệc Thánh Thể và nó đã được tính vào vé của cuộc sống.
Chúa Giêsu đã nói đến bữa tiệc thần diệu này trong bài Phúc Âm hôm nay như sau: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Gn 6:51).
Sự khác biệt giữa Bánh Hằng Sống và bánh ăn thường thì vượt xa vời vợi. Khi chúng ta ăn bánh thường, bánh ấy sẽ trở nên thân xác chúng ta. Nhưng khi chúng ta ăn Bánh Trường Sinh thì hiệu quả khác biệt. Bánh ấy không trở nên thân xác chúng ta, nhưng chúng ta trở nên Bánh Trường Sinh. Bánh ấy sẽ biến đổi chúng ta thành Thân Mình Chúa Kitô. Và đó chính là lý do tại sao khi chúng ta ăn bánh ấy, chúng ta sẽ được sống đời đời. Nếu chúng ta dành ra một đôi phút để nghĩ về mầu nhiệm kỳ diệu này, chúng ta sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên về món quà rất quí giá này.
Thật là một điều bất hạnh khi phải hành trình trong cuộc sống mà không biết gì đến món quà rất quí giá này. Thật là một điều bất hạnh cho những ai đang đi trên đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thần Diệu đi chung với cái vé cuộc đời.
Tuy nhiên, còn đau thương hơn nữa là có những người đi trên đường đời biết đến Bữa Tiệc Thần Diệu, nhưng coi thường bữa tiệc này và không biết ơn Đấng ban cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh ấy. Có khi chúng ta lãnh nhận Mình Thánh theo một thói quen và chúng ta khinh thường Mình Thánh. Chúng ta đã không còn biết tôn kính Mình Thánh và sự thiếu kính trọng đó đã được bộc lộ qua các hành động của chúng ta.
Chúng ta hãy xét xem chúng ta có biết cầu nguyện trước khi và sau khi rước Chúa không? Điều gì đã ở trong trí óc của chúng ta trước và sau khi rước Chúa? Chúng ta có cầu nguyện với Ngài như là một người bạn không? Chúng ta có cám ơn Ngài, xin Ngài tha thứ những lỗi lầm, và nói với Ngài những khó khăn của chúng ta không?
Cái gia đình Nam Tư nghèo khổ trong câu truyện trên thật là tội nghiệp, bởi vì đã đi hết chuyến vượt đại dương mà không biết rằng cái vé tàu bao luôn cả phần ăn nữa. Và còn tội nghiệp hơn nữa cho một số người trải qua đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thánh đến với họ cùng với cái vé cuộc đời.
19. Thánh Thể
Kinh Thánh đã đưa ra nhiều hình ảnh ám chỉ đến bữa tiệc Thánh Thể. Từ những lễ vật của Cựu ước đến Manna trong hoang địa. Thế nhưng, phép lạ bánh hóa nhiều là một hình ảnh vừa gần gũi, lại vừa trực tiếp nhất.
Bởi vì sau phép lạ ấy Chúa Giêsu đã xác quyết:
– Ta là bánh hằng sống từ trời xuống… Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống…
Tất cả những hình ảnh ấy đã được Chúa Giêsu thực hiện một cách trọn vẹn trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh, khi Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và nói:
– Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Rồi Ngài cầm lấy chén rượu và nói:
– Này là chén máu Ta, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.
Vậy thì Bí tích Thánh Thể có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Trước hết, Bí tích Thánh Thể là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất dâng lên Thiên Chúa để đền bù vì tội lỗi chúng ta.
Thực vậy, qua cái chết và sống lại, Chúa Giêsu đã trở nên lễ tế hoàn hảo nhất, bởi vì Ngài là Đấng thánh thiện tuyệt vời, được sánh ví như một con chiên vượt qua thanh sạch, không tì vết, để đền bù thay cho chúng ta.
Đúng thế, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, tự sức riêng chúng ta không thể nào đền bù cho cân xứng. Với cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã đền bù thay cho chúng ta và hy tế này, ngày hôm nay vẫn còn được tái diễn trong thánh lễ để kéo ơn sủng và tình thương của Thiên Chúa xuống cho chúng ta.
Tiếp đến, Bí tích Thánh Thể chính là lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, phần xác chúng ta muốn được sống thì cần phải ăn. Phần hồn chúng ta muốn được sống thì cũng cần phải ăn. Dĩ nhiên, không phải là cơm gạo vật chất, nhưng là chính thịt máu Chúa Giêsu như lời Ngài đã từng xác quyết:
– Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế.
Nhờ của ăn thần linh này, tâm hồn chúng ta được bổ dưỡng để có đủ sức khỏe tiến bước trong cuộc lữ hành trần gian, và sẽ đạt tới bờ bến Nước Trời.
Sau cùng, Bí tích Thánh Thể còn là sợi dây liên kết, không phải chỉ liên kết chúng ta lại với Chúa, mà hơn thế nữa còn liên kết chúng ta lại với nhau.
Thực vậy, nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta đều bình đẳng với nhau, không phân biệt địa vị và tuổi tác. Đồng thời, nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta còn chia sẻ cùng nhau một thứ lương thực thiêng liêng, đó là Mình và Máu Thánh Đức Kitô, như lời thánh Phaolô đã nói:
– Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể đòi buộc chúng ta phải biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau và chia sẻ cùng nhau gánh nặng cuộc đời.
Cộng đoàn các tín hữu sơ khai đã để lại cho chúng ta mẫu gương sáng chói về vấn đề này: Họ thường tụ tập nhau lại để tham dự nghi lễ bẻ bánh, tức là Bí tích Thánh Thể. Rồi trong cuộc sống, họ gom góp tài sản đặt dưới chân các tông đồ, để tùy các ngài phân phối theo nhu cầu. Với một nếp sống như thế, dân ngoại đã phải trầm trồ khen ngợi:
– Kìa xem họ yêu thương nhau biết là chừng nào.
Còn chúng ta thì sao? Cuộc đời của chúng ta có phải là một thánh lễ nối dài hay không? Và trong cuộc sống chúng ta có biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau như Bí tích Thánh Thể đòi buộc? Hay là, ở nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng khi bước xuống lòng cuộc đời, chúng ta vội lột xác thành một loài lang sói, luôn oán ghét, thù hận, gầm gừ và cắn xé lẫn nhau.
20. Bánh hằng sống
Đoạn Tin Mừng này có thể nói có bốn phần: trước hết là phản ứng của người Do Thái về lời tuyên bố của Chúa Giêsu, khi Chúa nói thịt Ngài là của ăn ban cho họ được sống muôn đời. Phản ứng của họ lần này có vẻ mạnh hơn trước. Họ xô xát và tranh luận với nhau. Họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen: là một người như họ, làm sao có thể lấy thịt mình cho họ ăn?
Phần thứ hai, trước phản ứng có vẻ dữ dội của người Do Thái, Chúa Giêsu vẫn không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”, nghĩa là hiệu năng dinh dưỡng mà thịt máu Chúa đem lại cho kẻ lãnh nhận, là sự sống muôn đời và sự phục sinh từ trong cõi chết.
Phần thứ ba, Chúa Giêsu cho biết của ăn của uống này tác động như thế nào. Của ăn vật chất chúng ta ăn thì biến thành thịt máu ta. Còn thịt máu Chúa mà chúng ta ăn, chúng ta uống, lại đưa chúng ta vào một sự kết hiệp mật thiết với Ngài: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna cũ để so sánh với hiệu lực của manna mới: manna cũ, những người ăn đã chết. Manna mới, những người ăn sẽ sống đời đời. Kết thúc bài giảng của Chúa Giêsu như vậy quả là tốt đẹp và gọn gàng. Chính người Do Thái gợi ra câu chuyện manna, thì Chúa Giêsu lại dùng ngay câu chuyện ấy để so sánh và mạc khải về bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống muôn đời.
Những lời Chúa Giêsu giảng dạy ở đây có đúng là ý nghĩa về Bí tích Thánh Thể mà giáo lý Công giáo thường hiểu không hay đây cũng chỉ là kiểu nói tượng trưng? Chúng ta có thể trả lời ngay rằng: Những lời Chúa Giêsu giảng dạy ở đây thực sự là nghĩa đen thông thường, nói về phép Thánh Thể chứ không phải là nói tượng trưng. Cũng như trong bữa Tiệc Ly, Chúa nói: “Này là Mình Thầy”, “Này là chén Máu Thầy”, “Cái này là tượng trưng cho Máu Thầy”. Nếu có gì lầm lẫn trong ý nghĩa đó, chắc Chúa đã cải chính hay sửa chữa lại. Nhưng dù dân chúng phản đối dữ dội, Chúa vẫn không thay đổi cách nói, Ngài không cải chính hay sửa lại điều gì, và suốt 20 thế kỷ qua vẫn giữ nguyên ý nghĩa đó.
Là con cái Chúa ở đầu thế kỷ 21 này, chúng ta không có lý do gì để nói rằng: chúng ta không biết, không hiểu về thứ bánh mà Chúa Giêsu đã mạc khải cách đây hai ngàn năm. Thứ bánh đó là bánh Giêsu, bánh có tên là Giêsu, là bánh từ trời xuống, có khả năng đem lại cho con người sự sống và sự sống đời đời. Nói tóm lại, điều chính yếu Chúa Giêsu muốn dạy bảo người Do Thái xưa kia và chúng ta hôm nay rằng: Ngài là bánh hằng sống. Ai ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Ngài và sẽ được sống đời đời.
Phép Thánh Thể là một bằng chứng thật hùng hồn nhắc nhở và tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa đối với loài người và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gioan tông đồ đã quả quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho thế gian”. Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho biết: “Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không giành cho mình phận ngang hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Cái chết của Ngài là một thực hiện lời mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Bánh đó, vẫn theo lời Chúa Giêsu, chính là thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ tìm được sức mạnh thánh hóa và nhận được một hiệu quả vô cùng cao quí là sự sống lại và sự sống đời đời. Nghĩa là đến với Chúa, tin vào Chúa, và ăn thịt Ngài là chúng ta lãnh nhận được sự sống đời đời ngay từ bây giờ, bởi vì mỗi lần lãnh nhận Thánh Thể là chúng ta lãnh nhận chính mầm sự sống đời đời. Cũng vậy, tin vào sự sống đời đời không phải là phủ nhận cuộc sống trần gian, nhưng chính là làm cho cuộc sống trần gian có ý nghĩa, vì sự sống đời đời lớn lên trong cuộc sống trần gian, và chính sự sống đời đời thôi thúc chúng ta làm cho cuộc sống trần gian tốt đẹp hơn.
Ai trong chúng ta không những muốn ăn no, mặc ấm mà còn muốn ăn ngon, mặc đẹp nữa, muốn hạnh phúc, kể cả những người đầy đủ cũng thế, họ còn muốn và ước mơ thêm nữa. Vậy anh chị em có muốn sau 60, 70 hay 80 năm trần thế này được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với Bí tích Thánh Thể, hãy hết lòng tin vào phép Thánh Thể, và hãy siêng năng lãnh nhận Thánh Thể, để Mình Máu Chúa tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến, sự hy vọng và giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc đời sau.
21. Máu thịt Đức Giêsu là của ăn tâm linh – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta đã mang danh là «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» bao nhiêu lần, thậm chí hằng ngày suốt bao năm trường. Nhưng đời sống tâm linh của ta có thật sự tiến triển không? Có những bước tiến vĩ đại – như đúng lý phải có – so với những người không «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» không?
2. Nếu không có những bước tiến to tát, thì có phải do Lời của Đức Giêsu không đúng, hay do quan niệm về Thánh Thể và cách thức «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» của chúng ta không đúng?
3. Phải quan niệm về Bí tích Thánh Thể thế nào? và phải «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» thế nào cho đúng?
Suy tư gợi ý:
1. «Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống»
Như lời xác nhận của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thì bản thân Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng và bồi bổ tâm linh con người. Vấn đề mà chúng ta cần phải đặt ra hôm nay không còn là lý giải chân lý ấy nữa, mà là áp dụng chân lý ấy vào đời sống tâm linh thực tế của chúng ta. Cả đời người Kitô hữu từ lúc rước lễ lần đầu đến lúc chết, việc áp dụng chân lý này trong đời sống tâm linh luôn luôn được những người hướng dẫn tâm linh nhắc nhở, khuyến khích thực hiện bằng việc rước lễ, tức rước Mình Máu Thánh Đức Giêsu.
Tuy nhiên, lâu lâu chúng ta cũng cần phải nhìn lại xem việc áp dụng chân lý quan trọng ấy có thật sự đem lại kết quả thực tế trong đời sống chúng ta chưa, và kết quả thế nào, có thật sự thỏa mãn chúng ta đúng như lời Đức Giêsu hứa chưa. Nếu quả thực sau nhiều năm rước Mình và Máu Thánh Đức Giêsu vào lòng mà chúng ta cảm thấy có tiến bộ thật sự trong đời sống tâm linh, thì đó là một điều hết sức đáng mừng. Nhưng nếu không được như vậy thì chúng ta cần phải xét lại. Cũng tương tự như khi uống một loại thuốc bổ được mọi người nói là thần dược một thời gian mà không thấy có kết quả gì khác lạ hơn là khi không uống, ắt nhiên ta phải lấy làm lạ, và phải đặt lại vấn đề. Có thể lời người ta ca tụng về loại thuốc ấy là sai sự thật, nhưng cũng có thể là ta đã sử dụng không đúng cách loại thuốc ấy.
Là người Kitô hữu hay tu sĩ lâu năm, nếu ta đã rước lễ hàng ngày hay hàng tuần suốt mấy chục năm trường rồi, mà ta vẫn không thấy mình tiến bộ về mặt tâm linh hơn những người ngoại, hay hơn những người khô khan ít lãnh nhận bí tích, thì ta cần đặt vấn đề lại. Trong thời đại khoa học thực nghiệm này, sự tiến bộ tâm linh nếu có ắt phải được được chứng tỏ bằng những sự kiện rõ rệt như: khả năng yêu thương ngày càng rộng rãi và bao trùm hơn, tính vị tha ngày càng nhiều hơn, có khả năng hy sinh cho tha nhân nhiều hơn, nội lực tinh thần mạnh mẽ hơn, sự khôn ngoan kiểu Thiên Chúa (chứ không phải kiểu trần gian) tăng triển hơn, bình an và hạnh phúc trong tâm hồn nhiều hơn và biểu hiện rõ rệt hơn, v.v… Nếu không có được những dữ kiện cụ thể như thế, chúng ta nên thành thật nhìn nhận rằng mình đã không tiến bộ tâm linh gì cả hay bao nhiêu. Lúc đó, chúng ta cần đặt lại vấn đề quan niệm về Bí tích Thánh Thể và cách rước Chúa của chúng ta.
2. Cần quan niệm cho đúng về Bí tích Thánh Thể
a) Bí tích Thánh Thể không phải là bùa chú hay phù phép
Nhiều Kitô hữu quan niệm Mình Máu Thánh Chúa tương tự như một thứ bùa chú hay phù phép, cứ việc nuốt vào bụng là tự động sinh hiệu quả mong muốn. Quan niệm như thế thì thật là sai lầm. Họ quan niệm Thánh Thể không khác gì những yêu tinh trong truyện Tôn Ngộ Không quan niệm về thịt Đường Tăng, cho rằng hễ ăn được thịt của ông thì sẽ tự nhiên sống lâu trường thọ. Nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ thay vì trường thọ về mặt thể chất thì được trường thọ hay phát triển về mặt tâm linh, mà không cần phải có một ý thức hay nỗ lực nào.
b) Thức ăn tâm linh thì phải ăn bằng tâm linh
Thực ra, Mình Máu Thánh Chúa hay thịt và máu Đức Giêsu là của ăn tâm linh bổ dưỡng tâm hồn. Thức ăn tâm linh thì chủ yếu phải ăn bằng tâm linh chứ không phải bằng thể xác. Điều quan trọng để được bổ dưỡng tâm linh là phải gặp gỡ được Đức Giêsu và nhận được sức mạnh từ nơi Ngài. Việc gặp gỡ Ngài ở đây cũng cần được hiểu là gặp gỡ bằng tâm linh chứ không phải bằng thể chất.
c) Gặp gỡ Thiên Chúa phải gặp gỡ bằng tâm linh
Nếu chỉ gặp gỡ bằng thể chất mà thôi thì hoàn toàn chẳng ích lợi gì. Các kinh sư Do-thái xưa cũng gặp gỡ và nói chuyện với Đức Giêsu nhiều lần, nhưng họ có được biến đổi gì đâu, trái lại họ chỉ trở nên tồi tệ, cứng lòng và độc ác hơn. Một chàng trai ăn chơi hưởng lạc trong ổ gái điếm, tuy chung đụng xác thịt với các cô gái, nhưng như thế đâu phải là gặp gỡ họ đúng nghĩa. Trong một đống gạch, hai viên gạch xếp cạnh nhau hay chồng lên nhau, tuy có trực tiếp tiếp xúc với nhau thật lâu, nhưng như thế đâu thể gọi là gặp gỡ.
Sự gặp gỡ đòi hỏi một thái độ nội tâm hơn là tiếp xúc bằng thể chất. Văn chương Việt Nam có câu: «Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (có duyên với nhau thì dù xa cách ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau, còn không có duyên với nhau thì dù có đối diện với nhau cũng chẳng thể gặp nhau). Vì thế, có biết bao Kitô hữu nuốt Thánh Thể vào bụng hằng ngày mà chưa bao giờ thật sự gặp được Đức Giêsu. Vì thế, họ có rước lễ hằng ngày suốt cả cuộc đời thì đời sống tâm linh của họ chẳng hề thay đổi, bởi họ chẳng hề được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể. Nếu thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, tâm hồn ta chắc chắn phải được biến đổi. Thời Ngài còn tại thế, có những người chỉ cần thật sự gặp gỡ Ngài một lần là được biến đổi hoàn toàn như Da-kêu (Lc 19,1-10), người trộm lành (Lc 23,39-43)…
d) Muốn thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, phải có tình yêu
Theo câu nói văn chương trên thì điều quan trọng để thật sự gặp nhau là phải có «duyên» với nhau. Muốn gặp Chúa, kết hiệp hay nên một với Ngài thì phải có «duyên» với Ngài, nghĩa là phải có một sự đồng cảm hay một sự giống nhau nào đấy với Ngài. Ta thấy dầu và nước không thể hòa tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải có những hóa tính căn bản giống nhau mới hòa tan với nhau được. Cũng vậy, «Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8.16), nên muốn gặp Ngài hay kết hiệp với Ngài thì chính mình cũng phải có ít nhiều tình yêu, có lòng vị tha, có thiện chí muốn gặp gỡ Ngài bằng bất cứ giá nào. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có rước lễ cả chục lần một ngày. Thánh Gioan xác định: «Ai không yêu thương, thì không biết (=kinh nghiệm về) Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8); «Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta» (4,12); «Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao Thiên Chúa ở trong người ấy được?» (3,17).
Phương cách «ăn» Mình và Máu Thánh Đức Giêsu
Ăn theo nghĩa vật chất đòi hỏi một số tác động như đưa thức ăn vào miệng, nhai, nuốt, và sau đó là cả một tiến trình làm việc âm thầm của dạ dày, gan, mật, ruột… để biến thức ăn thành chất bổ dưỡng. Tất cả đều là tác động thể chất. Còn «ăn thịt» và «uống máu» Đức Giêsu hoàn toàn là những tác động tâm linh. Hình bánh, rượu và tác động nuốt vào bụng đều là những dấu chỉ mang tính bí tích nói lên một thực tại tâm linh có thực ở đằng sau. Nếu chỉ ăn hay uống Ngài theo kiểu vật chất thì chẳng khác gì ăn một mẩu bánh hay uống một ly rượu, chẳng ích lợi gì cho tâm linh ta cả. Do đó, cần phải biết «ăn» hay «uống» Ngài theo kiểu tâm linh. Tôi đã trình bày vấn đề này trong hai bài chia sẻ trước (Chúa Nhật 18 và 19 Thường Niên). Cách «ăn» hay «uống» ấy hệ tại việc ý thức thường xuyên Đức Giêsu là Thiên Chúa với bản chất thần linh, là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn của tất cả mọi sự thiện hảo trên trời dưới đất. Bản chất thần linh và tất cả những nguồn này đang hiện diện ngay trong bản thân ta, sẵn sàng lan tràn sang bản chất của ta, biến đổi bản chất ta nên giống Ngài, làm ta nên mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, tình yêu, trí tuệ, can đảm, v.v… Ý thức thường xuyên như thế ta sẽ dần dần thấy tâm linh ta được biến đổi thật sự một cách có thể kiểm chứng được. Và sự biến đổi đó sẽ là một thực chứng, một kinh nghiệm tâm linh làm nền tảng cho đời sống thần linh của ta. Đời sống tâm linh phải được xây dựng trên những thực chứng về Thiên Chúa, về sức mạnh của Ngài. Nếu không, nó chỉ là một mớ lý thuyết không có khả năng đem lại lợi ích tâm linh thực tế.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã «ăn uống Mình Máu Thánh Đức Giêsu» suốt bao nhiêu năm trường, nhưng dường như con chẳng tiến bộ tâm linh bao nhiêu. Xin cho con biết đặt lại vấn đề một cách nghiêm chỉnh: máu thịt Đức Giêsu là lương thực tâm linh, tại sao con ăn uống máu thịt ấy hằng ngày, hằng tuần, mà tâm linh con vẫn yếu hèn? Xin dạy con cách thức «ăn uống Mình Máu Thánh» cho đúng với ý mà Đức Giêsu mong muốn.
22. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh
“Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Chữ “manna” chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với bạn và tôi. Chúng ta nghe rất nhiều khi đọc Thánh Kinh Cựu Ước, nhất là sách Xuất hành. Sách Tân Ước cũng đã có nhiều lần nhắc lại. Đặc biệt trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại từ “manna” như một so sánh kém hơn để nói về Bí tích Thánh Thể, của ăn cao quý. Vậy manna có nghĩa là gì?
Câu chuyện về manna thật lạ lùng. Nó như một phương tiện cứu đói mà Thiên Chúa quan phòng, qua đó đã tỏ bày lòng yêu thương đối với dân của Người. Ngày ấy, dân đi trong sa mạc đến bốn mươi năm. Sa mạc chứ đâu phải đồng bằng. Đồng bằng còn có người khổ, người đói nói gì đến sa mạc đầy khắc nghiệt, đầy nguy nan. Vì thế cuộc sống sa mạc dẫu có đói rét, thiếu thốn đến mức cùng cực, không thể vượt qua đi nữa, vẫn là điều không lạ. Thiên Chúa nhìn thấy nỗi lầm than ấy của dân chúng. Manna là quà tặng mà Người ban cho họ để không chỉ làm lương thực mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương vô cùng của Người. Người cho họ biết rằng, giữa nỗi cơ cực trăm chiều, Người vẫn ở bên họ, Người rất gần với họ.
Manna giống như một thứ nhựa cây, cứng lại khi gặp không khí. Muốn ăn, người ta phải giã nát ra rồi nướng thành bánh. Manna có đủ mọi mùi thơm ngon, điều đó biểu trưng cho lòng nhân hậu của Chúa.
Chúa Kitô ví Thịt Máu Người là BÁNH. Nói cho trọn nghĩa, Bánh ở đây nghĩa là lương thực. Lương thực – Bánh – này “bởi trời xuống”. Vì thế Bánh này là Bánh mà không một thứ lương thực nào ví bằng. Dẫu là manna, dẫu là lương thực đã từng biểu trưng cho lòng thương xót của Thiên Chúa với dân Người, vẫn không thể và không bao giờ có thể mảy may sánh được. Bởi thế Chúa Giêsu khẳng định: “Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Nếu ngày xưa, manna như một thứ nhựa cây, ngày nay bánh Thánh Thể chính là Mình Máu Đấng là Thiên Chúa làm người. Nếu ngày xưa ăn manna chỉ là ăn bánh, ngày nay lãnh nhận Bí tích Thánh Thể là ăn chính Chúa Kitô. Ngày xưa manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành cho dân, thì hôm nay lòng thương xót của Thiên Chúa đã trao tặng con người chính Người Con Một dấu ái. Ngày xưa manna chỉ là của ăn mang lai sự no nê cho thân xác, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô trở thành Thần Lương không chỉ nuôi sống linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Ngày xưa manna chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô không chỉ là lương thực giúp người tín hữu có đủ sức mạnh, đủ nghị lực tiếp bước hành trình về quê trời, mà còn đưa họ vào vĩnh cửu và sống vĩnh cửu. Ngày xưa manna cho thấy Chúa không bỏ dân của Người, ngày nay Chúa hiện diện giữa Hội Thánh và hiện diện giữa thế giới này bằng chính Con của Người trong Bí tích Thánh Thể. Còn hơn cả mọi hiện diện bình thường, nơi Bí tích Thánh Thể, người cô đơn tìm được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ; người đau đớn tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần; người mất niềm tin vào cuộc đời, vào con người tìm được chỗ nương thân; người hấp hối tìm được sự nâng đỡ vững vàng để bước ra khỏi cuộc đời; người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm… Và còn một ý nghĩa quan trọng, rất quan trọng: Nếu ngày xưa manna là của ăn nuôi thân xác, ngày nay còn hơn bất cứ của ăn nào, Mình Máu Chúa Kitô ban cho ta ơn thần hoá…
“Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”. Bằng những lời chân thành như thế, Chúa Giêsu giới thiệu cách long trọng Bánh hằng sống, Bánh muôn đời tồn tại và đầy quyền năng trao ban ơn sống đời vĩnh cửu cho tất cả những ai rước lấy với lòng trong sạch, đơn sơ, ngay lành. Bánh ấy, quyền năng ấy chỉ có thể được trao ban bởi một mình Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Thiên Chúa đã làm người, để bằng tất cả mọi sáng kiến của Người, ta được sung mãn đến mức làm một với Thiên Chúa. Bởi vậy, khi dạy hãy ăn Thịt và uống Máu Người, Chúa Giêsu muốn ta đời đời ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa trong ta. Người muốn ta dùng chính nhân tính của Người mà nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn ta. Người muốn ta hãy bồi bổ đời sống của mình bằng sự sống của Người cho đến khi trong ta thấm đẫm, tràn ngập và đầy dẫy sự sống của Thiên Chúa.
Vì Thánh Thể là một sự bồi bổ thần linh tuyệt hảo như thế, nên ăn Chúa Kitô là sống bằng chất bổ dưỡng có tên là CHÚA KITÔ. Vì thế việc rước lễ thường xuyên, cũng có nghĩa là ngay từ bây giờ bạn và tôi đã bước vào đời vĩnh cửu và chắc chắn sẽ được sống đời vĩnh cửu ấy.
23. Sự sống phát xuất từ việc trao ban sự sống
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch.2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c.25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng một câu nói của Đức Giêsu và một vấn nạn của người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ một câu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến một mạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc.35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51);
2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
– từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.
– bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi Bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người” [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về Bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ một vài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có một từ nhất định để gọi Bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram một ý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi một xác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra một trật cái chết trên thập giá và Bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con Người sẽ ban” không phải là Bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
– làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c.42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
– ăn… uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
– thịt… máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
– Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của Bí tích Thánh Thể.
– ở lại (56): Động từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là một đặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng một công thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
– kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.
– chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc.35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc.35-47 và cc.48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c.51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (c.51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện phi lý, lại còn “ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của Bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là một bằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiêp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c.54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c.54)” và “người ấy… ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c.56). “Ở lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (cc.37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong Bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người” (Thông điệp Giáo hội từ Bí tích Thánh Thể, 24).
24. Chú giải của Noel Quesson
BÁNH HẰNG SỐNG
Thiên Chúa là duy nhất và Lời Chúa là duy nhất, nghĩa là được gom lại trong một sự phát âm duy nhất: Chúa nghĩ mọi sự trong chỉ một “Lời” lời của Người hoàn toàn duy nhất. Nhưng độc nhất và duy nhất đó, lời đơn giản đó lại được truyền đi thành vô số những chân lý khác nhau, qua những lời nói khác nhau của con người. Cũng như ánh sáng trắng trong tính duy nhất của nó, gồm chứa mọi màu sắc của cầu vồng, rất khác nhau, khi chúng xuyên qua lăng kính của chúng ta. Vậy chúng ta không nên ngạc nhiên khi thấy người ta đưa ra nhiều giải thích về mầu nhiệm bánh sự sống. Mỗi cách giải thích là một sự tiếp cận, một phiến diện của chân lý độc nhất. Chương 6 Tin Mừng Theo thánh Gioan có thể được hiểu bằng 4 cách:
1. Một vài tác giả thời xưa đã nghĩ đến ý nghĩa thuần túy thiêng liêng “Bánh sự sống” đó là con người và sứ điệp của Đức Giêsu, mà ta “đồng hóa” nhờ đức tin.
2. Một số lớn những nhà chú giải Thánh Kinh thời nay, trái lại cho rằng cách nói này hoàn toàn thuộc về Bí tích Thánh Thể: “Bánh sự sống”, chính Thánh Thể mà chúng ta ăn thực sự trong một thứ bữa ăn hiện thực, trong đó chính thân Thể của chúng ta cũng đóng vai trò của nó.
3. Nhiều nhà phê bình đưa ra một ý kiến trung dung: Phần đầu diễn từ cho đến câu 50 nhắm vào đức tin… làm cho chúng ta được nuôi dưỡng bằng Đức Giêsu nhờ thông hiệp với tư tưởng và lời của Người. Phần 2 của diễn từ, bắt đầu từ câu 51 tức là bài đọc Chúa nhật này, nhằm Bí tích Thánh Thể, làm cho chúng ta kết hiệp với Mình Máu Chúa cách Bí tích, trong một “dấu chỉ hữu hiệu”.
4. Cuối cùng, đối với một số tác giả hiện đại, diễn từ của Chúa Giêsu nhắm cả vào Đức tin và Bí tích Thánh Thể. Thật vậy, có một sự kết hợp mạnh mẽ giữa hai đề tài này: Đức tin hoàn toàn nơi Chúa Kitô đòi hỏi phải tìm Người hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, vì Bí tích Thánh Thể là “mầu nhiệm đức tin” tuyệt vời.
Suy niệm về Lời và Con Người của Đức Giêsu (phần đầu của Thánh lễ: Phụng vụ Lời Chúa) và rồi thông hiệp với Mình Máu Thánh Người (phần 2 của Thánh lễ: Phụng vụ Thánh Thể), là 2 phần nối tiếp nhau. Làm sao ta có thể nói, người ta thực sự tin vào Đức Giêsu, con Thiên Chúa đã nhập thể không mà ta lại không làm theo lời Người và đón nhận “Mình Thánh” Người? Đức Giêsu thường nói về đức tin trước khi nói cách rõ ràng về Bí tích Thánh Thể, vì sự hiện diện nhiệm mầu” của Người chỉ thực sự nuôi dưỡng những kẻ tin. Ta cũng thấy được sự quan trọng phải đến dự lễ đúng giờ: Nhờ đức tin, chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa là chính Đức Giêsu, để có thể được nuôi dưỡng bằng chính Người trong mình Chúa đã được phó nộp vì chúng ta. Không có 2 phần trong Thánh lễ, phần đầu có thể tùy ý không bắt buộc. Ngay từ đầu, chúng ta đã thông hiệp với Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói: “Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”.
Đây là câu 51 lần đầu tiên một từ mới xuất hiện và sẽ được lặp lại 11 lần trong phần cuối diễn từ của Đức Giêsu: “thịt và máu” “ăn và uống”. Chứng từ này rất hiện thực chúng ta không làm sao chỉ có thể hiểu một cách tượng trưng được.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”.
Họ đã hiểu theo một cách thực tế nhất, và họ đã bất bình. Nếu họ nghĩ đến việc đón nhận Thánh Thể cách thiêng liêng, thì họ đã không bất bình.
Đức Giêsu nói với họ: “Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông sẽ không có sự sống nơi mình”.
Thay vì làm dịu bớt sự căng thẳng, Đức Giêsu lại càng nhấn mạnh đến tính thực tế của đời Người, và từ bây giờ trở đi, Người còn thêm 2 từ “thịt” và “máu”… Và vấn đề không chỉ nguyên là “ăn” mà còn là “uống” nữa. Việc rước Chúa dưới “hai hình” nằm trong truyền thống xa xưa bắt nguồn từ Đức Giêsu, đến nỗi người ta tự hỏi làm sao có thể bỏ truyền thống này, và cần phải bao lâu nữa người Kitô hữu mới muốn lặp lại truyền thống này.
Sự liên kết hai chữ “thịt” và “máu” có thể được hiểu bằng nhiều cách.
Theo tâm thức của người Sê-mít, kiểu nói này ám chỉ toàn diện con người, tất cả những gì làm nên thực tại cụ thể con người, với những khả năng và giới hạn của nó. Cũng theo tâm thức của người phương Đông, “máu” thật là linh thiêng, bởi vì nó là biểu tượng phi thường của “sự sống”, đến độ có thể dùng chữ này thay thế chữ kia (“nếu các ông không uống sự sống của Người, các ông sẽ không có sự sống của Người trong mình”).
Nhưng cuối cùng và quan trọng nhất, đó là sự phân cách giữa 2 yếu tố này: Mình Tôi và Máu Tôi, gợi lên cho biết Đức Giêsu sẽ chết cách nào, bằng cách “tách rời máu Người ra khỏi thân mình Người”. Đức Giêsu vừa nói: “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”: Ở đây rõ ràng Chúa muốn ám chỉ đến lễ hy sinh Thập giá. Chúng ta thâm tín với Đức Giêsu, Người cần phải hy sinh để cứu chuộc thế gian. Người biết Người phải “hiến dâng” mạng sống của Người để cho thế gian được sống.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.
Đừng quên rằng Thánh Gioan viết những câu này trong Tin Mừng của ông vào khoảng năm 90 hay 100. Nghĩa là từ 60 năm qua, ông đã cử hành Bí tích Thánh Thể với những cộng đoàn Kitô hữu. Làm sao mà độc giả của ông lại không áp dụng ngay những lời này vào Bí tích Thánh Thể mà họ đã “ăn và uống” thực sự, trong một bữa ăn huynh đệ thân mật. Vả lại, nếu Đức Giêsu không nói như thế thì làm sao các tông đồ trong bữa tiệc ly đã có thể hiểu được việc Đức Giêsu làm? Sự thiết lập Bí tích Thánh Thể, chiều 11 tối Thứ Năm Thánh sẽ không thể hiểu được đối với Nhóm Mười Hai, nếu Đức Giêsu đã không chuẩn bị cho các ông, bằng cách này hay cách khác… Và ở đây, trình thuật của Gioan rất quan trọng: Chắc chắn ông đã hiểu rõ những gì Đức Giêsu nói hôm đó khoảng một năm trước cuộc thương khó của Người, và Gioan đã đưa vào trình thuật của ông tất cả những hiểu biết về sự Phục sinh mà ông đã ghi nhận được qua những biến cố sau cùng này.
Vì Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống.
Thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu, chiều tối Thứ Năm. Nhưng chúng ta thấy có sự song song rất ăn khớp với Tin Mừng nhất là Mátthêu, Máccô và Luca: Thực sự đó chỉ là một Tin Mừng với những từ ngữ khác nhau. Chúng ta đừng quên một tính từ mà Thánh Gioan thường hay dùng, đó là chữ “đích thực”. Chữ này phải làm chúng ta chú ý, nó có nghĩa “coi thường”. Đó là “của ăn đích thực” một của ăn không giống như những thức ăn khác. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con những chỉ dẫn chính xác, rất quan trọng, giúp chúng con vượt lên trên những quan điểm nhân loại, quá chật hẹp thuần túy.
Sau đó, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta 3 hiệu quả của Bí tích Thánh Thể.
1) Sự sống đời đời và sự sống lại
Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại.
Bích tích Thánh Thể làm cho chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Và Thân Thể hằng sống này (sống một cách khác, sống sự sống đích thực) trở nên “mầm mống” sự sống Thiên Chúa trong chúng ta. Theo Tin Mừng nhất lãm, vào buổi tối tiệc ly Đức Giêsu sẽ nói về “bữa tiệc trên trời”, nơi đó Người sẽ quy tụ các bạn hữu của Người. “Thầy sẽ không uống rượu nho nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống với các con Rượu Mới trong vương quốc của Cha Thầy”. Bữa tiệc Thánh Thể là một sự tham dự trước bữa tiệc Nước Trời, nơi đó chúng ta sẽ ngồi đồng bàn với Chúa Cha, với Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, theo hình tượng rất đẹp của Chúa Ba Ngôi. Vâng, chúng ta đang đi tới cuộc gặp gỡ hạnh phúc đó. Tạ ơn Chúa.
2) Sự kết hợp hỗ tương giữa Chúa Kitô và người Kitô hữu.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn kết hợp với Tôi, và Tôi luôn kết hợp với người ấy.
Đây cũng là một từ quen thuộc đối với Thánh Gioan “ở cùng”. Ơn gọi của mỗi người là “ở cùng Chúa, ở trong Chúa”. Đó là đề tài căn bản của Giao Ước, đã được diễn tả trong Thánh Kinh suốt dòng lịch sử, qua những kiểu nói ngày càng rõ ràng, riêng tư và thân mật:
“Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi” (Xh 6,7).- “Người yêu tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người ấy (Dc 6,3).- “Các con hãy ở trong Thầy, cũng như Thầy ở trong các con” (Ga 6,56 – 15,4).
3) Sự tận hiến cho Chúa Cha.
Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy.
Giới từ được dịch ở đây là “nhờ Chúa Cha” có những nghĩa phong phú hơn trong tiếng Hy Lạp. Giới từ đó là chỉ “địa”, có nghĩa là “qua”, “vì”, “nhờ”. Chúng ta thấy phớt qua một trong những nghĩa cử sâu xa của Đức Giêsu, mà Thánh Gioan đã khéo đoán biết được: Đức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ Chúa Cha và cho Chúa Cha, và Người mời gọi chúng ta sống như thế!