Tuy chưa được ai xác nhận chính thức đây là bài thánh ca Giáng sinh Việt Nam cổ xưa nhất, nhưng với thời điểm xuất hiện vào năm 1907, bài ca này đã xứng đáng liệt vào hạng cây đa, cây đề của làng thánh ca VN nói chung và nhạc Giáng Sinh VN nói riêng.
Tác giả của bài thánh ca Nửa Đêm Mầng Chúa Ra Đời chính là Lm Phaolô Đoàn Quang Đạt, với nghệ danh đơn giản là Phaolô Đạt.
Lm Đoàn Quang Đạt sinh năm 1877 tại làng Bình Sơn ( Lái Thiêu ), nay thuộc xã An Sơn, huyện Thuận An, Bình Dương. Tuy vậy gốc gác tổ phụ từ Huế, di dân vào Nam cuối triều Gia Long, hoặc đầu triều Minh Mạng. Dòng họ Đoàn của Lm Phao lô Đạt theo đạo CG từ lâu đời và có người làm quan trong triều đình Huế. Vào đầu triều Minh Mạng, nhà vua gay gắt với đạo CG, cho nên nhiều người dòng họ Đoàn đã theo dòng người CG chạy vào Nam để tránh bị bách hại, dù sẽ phải đương đầu bao khó khăn khác, như sơn lam chướng khí, rừng thiêng, nước độc…
Lúc đầu dòng họ Đoàn định cư khai khẩn tại vùng Lái Thiêu. Sau đó, vào thời bắt đaọ gay gắt, thì phân tán ra các vùng phía Đông và phía Tây của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Điển hình như Thánh Tử Vì Đạo Lm Đoàn Công Quý, sinh tại Búng, Thuận An, Bình Dương. Còn người cháu gọi bằng chú, là Lm Đoàn Công Triệu, sinh tại Bình Sơn ( Lái Thiêu). Và Lm Đoàn Thanh Xuân thì sinh tại Lương Hòa, Long An.
Như thế dòng họ Đoàn có nhiều người làm Linh mục, là một gia tộc có nền móng CG đạo hạnh, xâu xa và bền vũng. Nhất là có được một vị Hiển thánh Lm Tử Vì Đạo: Đoàn Công Quý.
Thiếu thời, cậu Phao lô Đạt được nhận vào Tiểu Chủng viện SàiGòn. Từ những năm học các lớp nhỏ, cậu đã tỏ ra thông minh. Tài năng âm nhạc của cậu sớm bộc lộ. Bấy giờ cha Phaolô Nguyễn Văn Quý, giáo sư TCV là một vị Lm thông thái và có biệt tài âm nhạc, đã hướng dẫn nhạc lý cho cậu, cùng hướng dẫn cậu dịch các bài ca vịnh Trái Tim và ca vịnh Đức Mẹ, từ La ngữ sang Việt ngữ vắn gọn và phổ nhạc theo nhịp điệu riêng biệt, làm thành hai quyển : Ca Vịnh Trái Tim và Ca vịnh Đức Mẹ. Năm 1913, nhà in Tân Định xuất bản cả hai quyển trên với đầy đủ bản nhạc.
Tượng Lm Phaolô Đoàn Quang Đạt do điêu khắc gia Trần Mừng sáng tác
Ngày 23/9/1911, tại nhà thờ Đức Bà, Chánh tòa Sài Gòn, Thầy Phaolô Đoàn Quang Đạt được Đức Cha Lucien Mossard Mão truyền thánh chức Linh Mục.
Trong suốt 45 năm Lm, cha Phao lô Đạt phụ vụ GH ở nhiều nhiệm sở. trước tiên làm giáo sư TCV SG. Sau đó trải qua những năm tháng ở nhiều giáo xứ, như Đất Đỏ (Bà Rịa), Tân Định, Tây Ninh, Bô Mua, Bến Sắn, Bà Rịa.
Khi làm cha sở Bà Rịa trong 16 năm (1933 -1949) cha Phaolô Đạt tổ chức nhiều sinh hoạt mục vụ rất ngoạn mục và có ý nghĩa sâu xa, như xây dựng hoạt cảnh Giáng Sinh, rước tượng Chúa Hài Đồng quanh nhà thờ…Sau cùng, ca đoàn xướng lên bài “Nửa Đêm Mầng Chúa Ra Đời” để kết thúc.
2. Vẫn tại Bà Rịa, cha sở Phaolô Đạt thường xuyên đích thân dạy giáo lý mỗi chiều Chúa Nhật. Cha giải thích cặn kẽ các lễ nghi, các phép bí tích, ý nghĩa các kinh đọc hằng ngày. Cha xây dựng truyền thống kéo chuông Truyền Tin, gọi là Nhật Một, mỗi ngày, vào sáng, trưa và tối. Cha còn lập thói quen tốt đẹp, giật chuông báo tử, đọc kinh cầu cho linh hồn người mới qua đời trong giáo xứ.
Cha đào sâu ý nghĩa của cơ cấu Họ Đạo. Theo cha, mọi thành viên tìm đất sống nơi hoang dã, trốn tránh cơn bách đạo cấm cách của vua quan, sống gần nhau thành một xóm, tất cả là Dân Chúa phiêu bạt, là anh em, coi nhau như họ hàng thân thích đùm bọc nhau. Cha xây dựng trong giáo dân tình ruột thịt trong Họ Đạo. Đó là một nhân sinh quan CG và nhân bản…
Ngày 22/11/1933 cha Đoàn Quang Đạt được chuyển về nhiệm sở giáo xứ Bà Rịa. Khi ấy cha mới 56 tuổi, mà đầu đã bạc trắng, lại thêm bệnh hen suyễn khá nặng. Vì thế, cha luôn ăn uống kiêng khem, đạm bạc, dù cơn suyễn nhiều lần hành hạ suốt đêm. Tuy vậy, không bao giờ cha bỏ dâng Thánh lễ.
Vào tháng 8/1949, vì tuổi cao, sức khỏe cha Phaolô Đạt nhanh chóng suy sụp, nên Đức Cha Jean Cassaigne đưa cha về dưỡng bệnh ở chủng viện SG. Sau đó cha Giuse Thiên, cha sở Chí Hòa xin Đức Cha cho cha Đạt về nhà hưu dưỡng các Lm ở Chí Hòa.
Đến sáng ngày 21/2/1956, cha Phaolô Đạt dâng thánh lễ cuối cùng. Đến trưa, cơn suyễn nổi lên quá mạnh, ngài không chịu nổi, đã tắt thở lúc 13g trưa, thọ 79 tuổi và 45 năm Lm.
( Theo Lê Ngọc Bích, Nhân vật CG VN thế kỷ XVIII – XIX – XX )
Vài nét chấm phá về hình ảnh cha Phao lô Đoàn Quang Đạt tại Tân Định và Bà Rịa lần thứ hai.
Thời kỳ cha Phaolô Đạt phụ trách nhà in Tân Định ( 1926 – 1933: 6 năm)
Khi Cha Long đổi đi Baria thì đức Cha Phao Lô Đoàn Quang Đạt, bổn sở Bố mia về coi nhà in Tân Định dưới quyền G.B.Tòng.
Đời Cha Phaolô Đạt coi nhà in, thì không còn nuôi trẻ ăn và ở luôn như trước nữa, mỗi đứa làm việc Cha phải phát lương cho mà ăn sắm mặc lấy: những lề luật phải giữ bề ngoài như xưa cũng bãi hết. Sáng ngày bắt đầu 7 giờ 30 vô làm việc cho đến 11 giờ trưa, chiều 2 giờ 30 đến 5 giờ nghỉ.
Trong vòng 7 năm coi ấn quán, Cha Phaolô Đạt đã sắm thêm được 3 cái máy in lớn kim thời chạy điện (một cái Marinomi-Voirin và 2 cái Capdevielle) rất tiện lợi mau chóng. Đức Cha Jaidôrô Đượm (Mrg.dumortier) đã thân hành làm phép 3 cái máy ấy. Cha Phaolô Đạt cũng mua một máy cắt lớn chạy bằng điện hiện nay còn dùng.
Tháng Novembre 1933, đức Cha Jsidôrô chọn cha Long về làm bổn sở họ Tân Định và cha Phaolô Đạt đi nhận chánh sở Baria thế cho cha Long, thì đức cha cử Cha Giacôbê Huỳnh Công Quận chủ nhiệm báo Nam Kỳ địa phận kiêm luôn chánh giám đốc nhà in cho đến khi ngài qua đời. Ngày 5 Avril 1943, hưởng thọ 78 tuổi làm việc tông đồ 47 năm.
(TRÍCH TÀI LIỆU DO HỌ ĐẠO TÂN ĐỊNH CUNG CẤP)
( Nguyễn văn Trung, Lục Châu Học)
Thời kỳ cha Phaolô phụ trách trở lại giáo xứ Bà Rịa ( 1933 – 1949)
…Cha Long đổi đi, cha Phaolồ Đạt về.
Người ta nhắc: Từ ngày cha đi rồi, đâu còn nghe cha hát nữa. Bởi cha cũng là một thầy đờn. Cha soạn nhạc. Cha là tác giả của hai cuốn “Ca Ngợi Trái Tim” và “Ca Ngợi Đức Bà”. Còn bài hát “Kính Nguyện Chúa Thánh Thần” cũng là của cha. Thỉnh thoảng trong ngày, có dịp đi ngang nhà cha, người ta nghe cha hát. Cha hát một cách tự nhiên, to tiếng y như là người ta đang hát trong nhà thờ. Có người rình và thấy khi hát, cha “múa tay” lên xuống, lắc lư cái đầu làm như hát thiệt:
– Cha nhỏ con mà tiếng hát cha to ghê! Đó là những lúc cha đang soạn nhạc, cha đánh nhịp, cha hát thử. Có một lần lên nhà thờ gặp giờ cơm, về bà ngoại tôi thấy mũi lòng. Bà kể cha ngồi ăn cơm trưa với một dĩa khổ qua luột và một dĩa nước mắm “sống” có dầm trái ớt (đó là nước mắm nguyên chất, không có pha chế, thêm giấm hay thêm đường). Thấy bà ngoại tôi cứ nhìn lom lom “bữa cơm” của cha, cha giải thích: ăn như vầy ngon lắm con mà lại bổ nữa, với lại khổ qua ăn nên thuốc. Nhưng bà ngoại tôi “không chịu”, rồi từ đó cho đến khi ngoại tôi chết, cứ mỗi lần câu được cá buôi thì bà ngoại tôi sai hai anh tôi đem lên cho cha. Con cá buôi này tôi không hề biết mặt. Đó là loại cá hiếm mà anh tôi nói là ngon lắm, tưởng gì: ngoại nói như vậy. Cũng bà ngoại tôi nói chớ nào anh tôi có nếm qua món cá này bao giờ đâu. Anh tôi còn nói: cá này mắc tiền lắm, người ta mà câu được thì thường đem ra chợ bán, cho mấy nhà giàu, và mỗi lần hai anh tôi (hai anh em sinh đôi) khiêng cái giỏ cá đi lên nhà cha, cha thấy thì cha hay bước ra trước thềm nhà cha, đầu ngả qua ngả lại, cha hát:
Ba đồng một mớ cá buôi
Bỏ công câu cá về nuôi mẹ chồng.
Bà ngoại tôi chết, không còn cá buôi để đem lên cho cha nữa. Rồi cha đổi đi nơi khác, không biết là họ đạo nào cho đến khi má tôi dẫn tôi lên thăm cha là lúc cha đang nghỉ hưu tại Chủng Viện Sài Gòn. Rồi cha qua đời, được chôn cất tại nghĩa trang các cha ở Chí Hòa. Đâu có dễ gì mà tìm đến nơi được để “thăm” cha. Từ xứ tôi mà đi được đến Sài Gòn thì cầm bằng như là bây giờ đi từ Việt Nam qua Mỹ, qua Tây, nhưng hồi đó có lẻ còn khó hơn. Mà đến được Sài Gòn rồi thì Chí Hòa là ở đâu nữa? Bởi vậy, hễ có người biết đường đi, người ta rủ nhau đi chung, đi lên thăm cha già, đi viếng mộ cha. Cả một tốp người vây quanh một nấm mộ. Bao nhiêu người chung một lòng tưởng nhớ! Trước đây, trong tháng 5 là tháng Đức Mẹ và tháng 6 là tháng kính Trái Tim, chiều phép lành là người ta hát các bài hát trong sách “Ca Ngợi”. Còn ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, nhiều họ đạo lo tập kinh “Kính Nguyện Chúa Thánh Thần”, 4 bè thiệt là “uy nghi”. Những khi nghe hát những bài hát này, sau lễ bà con xứ tôi nhắc nhở nhau: “Thiệt, nghe mấy bài hát này tui nhớ cha già Phaolồ Đạt quá!” Ngày nay, nói tới mấy kinh này, có mấy ai biết!
Trong đời tôi, còn nhiều “cha sở” nữa, nhưng xin dừng lại nơi đây, tạm có đôi phút tưởng nhớ các cha xưa, “cha sở tôi”.
( Micae Nguyễn Ngọc Sáng, Năm Linh mục: Cha Sở Tôi, Vietcatholic )
3. Về sáng tác, Lm Phaolô Đạt không có nhiều, nhưng tất cả đều đạt chất lượng cao. Ngoài hai quyền ca vịnh nêu trên, còn những bài nổi tiếng như Nửa Đêm Mầng Chúa Ra Đời, Kinh Nguyện Chúa Thánh Thần, Tôi Kính Lậy Chúa GiêSu…
Ngay từ trong chủng viện, những bài hát Ca vịnh của thầy Phaolô Đạt bấy giờ được nhiều người khen ngợi. Cha Bề Trên chủng viện Ernest, giỏi dương cầm nổi tiếng có lời khen: Một lối nhạc vừa Đạo đức vừa Dân Tộc. Cha Gabriel Long, một nhạc sư cũng khen: Nhạc của Phaolô Đạt thật ngọt ngào say mến, đi sát với tinh thần của mỗi bài hát.
Nửa đêm mừng Chúa ra Đời
Nửa đêm, mừng Chúa ra đời.
Bức khăn sạch vấn để nơi hang lừa.
Nửa đêm, mừng Chúa ra đời.
Cỏ rơm trải lót bơ thờ.
Cỏ rơm trải lót bơ thờ.
Mượn ấm bò lừa quỳ thở dâng hơi,.
quỳ thở dâng hơi
Kiểng tinh soi sáng thâu đêm.
Kiểng tinh soi sáng thâu đêm.
Chói lói giữa trời nhỏ xuống Bê Lem.
Thiên thần chín đẳng chầu quanh
Thiên thần chín đẳng chầu quanh
Tấu nhạc rập ràng đàn hát, đàn hát xướng ca.
Vậy có ca rằng, rằng ca Thiên Chúa
Ớ loài người, ấy phúc lành bình an cho người
Vì cửa Thiên Đàng rộng mở
Tang tình tình tang Thiên Đàng rộng mở
Tang tình tình tang Thiên Đàng rộng mở
Chúa Cả ra ơn, ơn cả chữa đời
Rằng: Ớ chúng nhân tới xem điềm lạ
Kìa trong hang đá nọ, trước lều tranh
Rằng tính tình tinh Thánh Tiểu Hài Sinh
Thật Ngôi Linh tính tang tình,
Là tình Thiên Chúa,
Nằm trong máng cỏ, bó bức khăn đơn
Rằng: Báo chúng nhân tơi xem thì biết
Tiêu thiều nhạc thiết,
Tiêu thiều tấu cách vô biên
Rằng: Tính tình tinh Thánh Tiểu Hài Sinh
Thật Ngôi Linh tính tang tình là tình Thiên Chúa.
Thiên thần vô số, nhạc thổi tung hô!
Thiên thần vô số, nhạc thổi tung hô!
Bài thánh ca này hiện nay chỉ đề mỗi tác giả là Phaolô Đạt, nhưng chúng tôi đang có trong tay một bản đề tên 2 người đồng tác giả. Đó là thêm Lm G. Long ghi trước Phao Lô Đạt. Như vậy có lẽ cha giáo sư Gabriel Long đã cộng tác với thầy Phaolô Đạt trong sáng tác này.
Đến nay, nhiều người vẫn còn thắc mắc không rõ bản nguyên tác như thế nào. Sau nhiều năm tháng, bản thánh ca NĐMCRĐ đã tam sao thất bổn, như nhạc sĩ Đỗ Vy Hạ khi so sánh 4 ấn bản có trong tay, đã phát hiện ra đến 39 điểm dị biệt.! (http://www.calendi.com/thanhnhac/topic.asp?TOPIC_ID=3786)
4. Trước đây, trong một bài báo của Lm Vũ Đình Trác, tựa đề “Ca Nhạc Công Giáo” đăng trên Vietcatholic, đã viết: ..Các Lm Paulô Quy, Paulô Đạt (…) sáng tác những bài thánh ca mới theo điệu bình ca và ngũ cung Việt Nam (…) Lần đầu, hai Lm trên sáng tác những bài hát mới rất khởi sắc, như các bài:”Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời”, “Kinh Nguyện Chúa Thánh Thần” (…) Các bài hát mới này vừa hay lạ, vừa sốt sắng, lại có giọng điệu dân tộc, hợp với tinh thần người Việt. vì thế, được các nhà thờ miền Trung và miền Nam đón nhận nhiệt tình…
( Lm Vũ Đình Trác, Vietcatholic, ngày 16/7/1997)
Nhận định về bài NĐMCRĐ, ông Lê Đình Bảng, nhà thơ, nhà nghiên cứu thơ ca, âm nhạc CG đã viết: Bên cạnh giá trị về giai điệu và cung bậc mang âm hưởng dân tộc, còn phải kể tới giá trị lời ca là toàn văn của bản kinh vãn cùng tên trong Sách Kinh Mục Lục của địa phận Sài Gòn, một pho bách khoa toàn thư, đậm đặc thứ ngôn ngữ giầu hình tượng, rất riêng của những người con Chúa ở phương Nam:
Nửa đêm, mầng Chúa ra đời
Bức khăn sạch vốn để nơi hang lừa
Cỏ rơm trải lót bơ thờ
Mượn ấm bò lừa thở ấm dưng hơi
Kiểng tinh soi sáng nơi nơi
Chói sáng giữa trời, nhỏ xuống Bê linh…
( Lê Đình Bảng, nguyệt san CG & DT số 84, Tháng 12 – 2001)
Mới đây trong bài viết của Đỗ Hữu Nghiêm với đề tài QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THÁNH NHẠC, THÁNH CA VIỆT NAM, đăng trên Dũng Lạc, đã đề cập đến bài NĐMCRĐ như sau:
Các nhà nghiên cứu thánh ca có nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện bài thánh ca đầu tiên của VN, vì thiếu chứng liệu rõ ràng.
- Theo kết quả tìm hiểu thứ nhất, tại miền Nam, có người cho là bài “Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời” và “Ca Vịnh Đức Bà” do linh mục nhạc sĩ Phaolồ Đạt, thuộc họ đạo Búng (Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương xưa, giáo phận Sài Gòn, nay thuộc giáo phận Phú Cường). Hai bài thánh ca đầu tiên này được biên soạn khoảng năm 1907, và được ấn hành tại Imprimerie de la Mission de Tan Dinh (Tân Định ấn Quán) khoảng năm 1910.
Theo kết quả tìm kiếm thứ hai, một số nhà nghiên cứu lại cho bài “Thánh Thể”, sáng tác năm 1901 và bài “Dâng Mẹ Hoa” sáng tác năm 1902 của tu sĩ Anphong Châu. Đây là ý kiến ông Sơn Đông đưa ra bằng chứng qua hai quyển Cantemus Domino và Cung thánh Tổng hợp 1&2 của Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh. Cả hai bài này đã có thời gian được hát thông dụng ở Nam Định, nhưng hiện không lưu lại bằng chứng rõ rệt nào.
Hai đường lối tìm hiểu này phù hợp với sự xuất hiện buổi ban đầu phát triển chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ. Nhân vật nổi tiếng thời kỳ này là Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) với tác phẩm nổi tiếng là cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị và một số tác phẩm khác còn lưu lại đến ngày nay.
Ngoài ra người ta thấy xuất hiện tờ báo “Nam Kỳ Địa Phận” tại Sàigòn xuất bản số 1 (1908) và số cuối 1849 (tháng 3/1945). Chắc chắn những số đầu tiên đã nói đến những sáng tác thánh ca đầu tiên ở Việt Nam. Khi ở Sài gòn , tôi đã có thời gian nghiên cứu tập san này, nhưng nay không có điều kiện để tham khảo nhiều chuyên đề xa xưa liên quan đến lịch sử Việt Nam , nhất là thánh ca trong giai đoạn ít nhất từ 1908 đến 1945.
Thực ra trong Nam Kỳ Địa Phận, nhất là trong báo Vì Chúa xuất bản nẳm 1936 sau này, đã có những bài hát được Linh Mục Nguyễn Văn Thích (1891-1978) sáng tác. Vốn là một tín đồ trong gia đình sung Phật giáo cải đạo sang Công giáo, chắc chắn những bài ca của linh Mục Thích đã bộc lộ một ức độ nhuần nhuyễn đặc tính ầm nhạc Phật giáo với Thánh Ca Công giáo. Có thể là những bài hát biểu trưng co nền Thánh nhạc ban đầu ở Miền Trung.
Về âm nhạc, linh mục Nguyễn văn Thích sử dụng thành thạo các nhạc khí dân tộc như đàn cò, đàn nguyệt, đàn bầu, đàn tì bà… kể cả các nhạc cụ Tây phương.
Trong thánh ca, một trong những bài nổi danh là bài Magnificat Việt ngữ (hiện được hát trong nhiều giờ kinh phụng vụ. Không thể kể hết nhưng các bài rất ý nhị như bài «Câu hát Đức Mẹ ru con», «Trời cao đất thấp gặp nhau», v.v… vừa giàu tình cảm, vừa đậm đà cung điệu và thanh âm của những câu hò hay ca trù dân tộc.
- Cách tìm hiểu thứ ba cho rằng những bài thánh ca Việt Nam đầu tiên đã do linh mục Vượng, đặt lời Việt vào các thánh ca La-tinh và Pháp, Các bài thánh ca lời Việt nhạc Tây phương này được đóng thành tập 20 bài và phổ biến rộng rãi ở Nam Định, Hà Nội. Ngoài ra những bài này còn lan rộng sang các nơi có giáo hữu, khắp ba miền Bắc, Trung và Nam. Đây là quyển sách hát thánh ca đầu tiên, dù không ai nhớ tên quyển sách là gì, chỉ còn nhớ tên gọi phổ biến là “Sách Hát Cha Già Vượng”.
“Sách Hát Cha Già Vượng” chỉ xuất bản tương đối muộn vào những năm 1943. Cha Vượng không hề sáng tác bài nào mà chỉ đặt lời Việt cho giai điệu du dương có sẵn. Sách hát này bán chạy như tôm tươi. Các giáo hữu lúc bấy giờ nghe hát tiếng La-tinh không hiểu gì, nhưng được hát bằng tiếng Việt thì vô cùng hưởng ứng. Điều đó cho thấy phải chăng chưa có bài hát tiếng Việt nào trong nhà thờ trước đó, mọi người mới khao khát đến như thế.
Như thế, tại ba miền Nam, Trung, Bắc, ba linh mục Phao lô Đạt, Giuse Maria Thích, và cha già Vượng đều là những đại biểu đầu tiên của nền Thánh Ca Việt Nam
Chủ trương này có nhiều cơ sở xác đáng trùng hợp với những sáng tác tân nhạc Việt Nam đầu tiên trong giai đoạn 1930-1945. Trong giai đoạn này, các nhạc sĩ tiên phong như Nguyễn Văn Tuyên, Đặng Thế Phong, Lê Thương, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Tô Vũ, Nguyễn Thiện Tơ, … đã thành lập những nhóm tân nhạc và đặt “lời ta cho bài hát tây” tức là nhạc Pháp,…
- Như đề cập ở trên, ca từ bài Nửa Đêm Mầng Chúa Ra Đời ( NĐMCRĐ ) có xuất xứ từ kinh vãn cùng tên, đăng trong Sách Kinh Mục Lục của địa phận Sài Gòn. Dưới dạng vần thơ lục bát dễ rung cảm, thấm vào lòng trí người tụng, kinh vãn này cũng như nhiều bài kinh kệ khác cùng thời thường dùng vàì từ Hán Việt, không phải làm dáng, nhưng để tăng thêm phần trang trọng.
Tuy nhiên, ngôn ngữ có cuộc sống theo dòng chảy xã hội, cũng chịu quy luật sinh tồn. Một số từ ngữ có thể mai một, ít dùng hoặc biến mất, để phát sinh ra nhiều từ mới, phản ảnh thực trạng, hay tâm thức xã hội. Do vậy, một số từ Hán Việt trong bài thánh ca này đến nay ít sử dụng, đã trở nên khó hiểu. Chẳng hạn như vài danh từ: Kiểng tinh, tiêu thiều, nhạc thiết… Chúng ta thử tìm hiểu để cố gắng lãnh hội được nét đẹp mượt mà của bài kinh vãn, lẫn bài thánh ca trên trăm tuổi này.
Kiểng tinh có nghĩa cảnh tinh tú, ngôi sao sáng. Trong bài này còn ám chỉ ngôi sao chổi dẫn đường Ba Vua.
Tiêu thiều: tiếng dùng chung chỉ âm nhạc trong hoàng cung. Ám chỉ Hội Nhạc Thiên Quốc do các Thiên Thần đồng tấu cất lên
Tiêu thiều tấu cách vô biên: Nhạc Trời tấu lên tưng bừng không giới hạn
Nhạc thiết: Nhạc trổi lên.
Thiên thần chín đẳng chầu quanh: Chín ĐẲNG Thiên Thần ( Thường hay bị hát sai: Thiên Thần chín ĐẤNG chầu quanh ) Vì có đủ chín đẳng Thiên Thần, nên cuối bài ca mới có vô số Thiên Thần !
Thánh Tiểu Hài Sinh: Chúa Hài Nhi mới sinh.
Tuy những bài ra đời sau gần nửa thế kỷ, như Hang Bê Lem (1945) của Hải Linh, Cao Cung Lên (1945) của Lm Hoài Đức, đều dư âm nét nhạc Tây phương. Thì trước đó xa vời, Lm Phaolô Đoàn Quang Đạt đã không phóng tác theo Cantus Pro Festis Solemnioribus, hay Cantus Officiorum in Cantus Gregoriano, hoặc Cantiques de la Jeunesse, mà kỳ công nhạc hóa cung kinh lời nguyện, thổi làn điệu dân ca vào thánh nhạc dân tộc. Một bước tiến đột phá, đi tiên phong trước cả Công Đồng Vaticanô II: Hội nhập văn hóa!
Những ca từ Lm Phaolô Đoàn Quang Đạt đượm nét mộc mạc, dân dã, mà vui tươi, thánh thiện, lôi cuốn cả người hát lẫn người nghe không khỏi hân hoan tràn ngập hy vọng:
Tang tình tình tang Thiên Đàng rộng mở…
Rằng tính tình tinh Thánh Tiểu Hài Sinh
Thật Ngôi Linh tính tang tình,
Là tình Thiên Chúa,…
- Cảm nhận về NĐMCRĐNói đến các nhạc phẩm Giáng sinh thì rõ ràng là nhạc phẩm NĐMCRĐ ít được chú ý, với những lý do mà các bài trước đã phân tích. Tuy nhiên nói về khía cạnh nhạc lý, thì các ca trưởng thì có lẽ hơi ngại khi tập bài này.
Bài hát được viết theo cung Fa trưởng liền một mạch từ đầu dến cuối, không phân thành điệp khúc, phiên khúc hay lặp lại.
Bài có ba bè dành cho các ca đoàn vừa, khoảng 20 – 30 ca viên, hai bè giọng nữ và một bè giọng nam. Bè nữ cao lên nốt cao nhất là Fa (trên) nhưng hơi thường xuyên (Có lẽ chính vì lẽ này mà các ca trưởng ngại tập). Với giọng ca không chuyên của các ca viên trong các giáo xứ thì nốt này là quá cao.
Trở lại với bài hát.
Mở đầu là hai câu nhạc giáo đầu: “Nửa đêm mừng (viết theo các bản hiện nay) Chúa ra đời, bức khăn sạch vấn để nơi hang lừa.” Câu này như tiếng loa thiên thần, đánh thức các mục đồng đang mê ngủ. Sau đó, cả bầu trời bừng sáng lên với câu nhạc 3 bè tiếp theo, như ca đoàn các thiên thần đang hợp xướng: “Nửa đêm mừng Chúa ra đời, cỏ rơm trải lót bơ thờ. Mượn ấm bò lừa quỳ thở dâng hơi. Kiểng tinh soi sáng thâu đêm, chói lói giữa trời nhỏ xuống Bê Lem”.
Sau đó, các mục đồng cùng hòa ca với các Thiên thần qua giọng nam: “Thần /mừng /hát /mừng /hát, /đàn /hát /chầu /quanh/ hát /mừng.”
Và thiên thần lại nhắc nhủ: ” Ớ loài người ấy phúc lành bình an cho người vì cửa thiên đàng rộng mở.” Bài hát như một cuộc xướng đáp giữa các thiên thần và các mục đồng.
Giai điệu bài hát mang tính bình ca và chút tiết tấu của đồng dao Việt Nam. “Nửa đêm mừng Chúa ra đời, bức khăn sạch vấn để nơi hang lừa.” Với những luyến láy bình ca và những luyến láy này trải dài trong toàn bài, rất thong dong.
Trong khi đó giọng nam còn thong dong hơn, như không có chút vướng bận chộn rộn của cuộc sống trong đó, kể cả những lúc nhạc rộn ràng: “Tang tình tình tang thiên đàng rộng mở” hay “Thật ngôi linh tính tang tình là tình Thiên Chúa” ta nghe cũng nhẹ như không.
Trong những đoạn này, ta còn cảm nhận tiết tấu của đồng dao. Nghe như các trẻ đang hát những bài vè: “Thiên thần chín đấng chầu quanh. Thiên thần chín đấng chầu quanh. Tấu nhạc rập ràng, đàn hát, đàn hát xướng ca.” hay ” Rằng tính tình tinh. Thánh tiểu hài sinh. Thật ngôi linh tính tang tình là tình Thiên Chúa.”
Lm Phaolô Đạt đã chuyển tải rất khéo một bài ca vãn dân gian sang điệu nhạc Tây phương nhưng không làm mất đi bản chất dân ca trong đó. Một bản nhạc với cách hòa âm rất giản dị. Chỉ trong ba hợp âm căn bản Fa – Do – Sib mà ngài dã làm cho bài hát trở nên uyển chuyển mà trong sáng, giản dị, không cầu kỳ.
- Vì sao bài NĐMCRĐ không được nhiều người biết đến?
Là bài hát bằng tiếng Việt được ra đời sớm nhất, trong thời kỳ mà các nghi thức phụng vụ đều bằng tiếng La Tinh, thì rõ ràng bài hát chỉ được phổ biến trong giới hạn nho nhỏ của cộng đồng giáo xứ, hoặc vài giáo xứ chung quanh. Hơn nữa, lễ Giáng Sinh thời đó thuần túy là một ngày lễ của “người có đạo”, có đàn hát xướng ca cũng chỉ “người có đạo” biết mà thôi, chứ không như ngày nay, Giáng Sinh đã trở thành một ngày hội. Từ cuối tháng 11 dến suốt tháng 12 đi đâu người ta cũng thấy không khí Giáng Sinh với đèn trang trí đầy màu sắc, hình Ông Già Noel với tuyết trắng rơi đầy, hang đá, máng cỏ…. và đâu đâu cũng văng vẳng tiếng chuông với những bài Thánh ca hoặc các bài hát về mùa đông và Noel.
NĐMCRĐ còn là một bài hợp xướng, do đó tính chất phổ biến của nó lại càng bị giới hạn hơn. Người ta có thể ngâm nga bài ca vãn với những vần thơ lục bát:
“Nửa đêm mầng Chúa ra đời.
Bức khăn sạch vấn để nơi hang lừa,
Cỏ rơm trải lót bơ thờ,
Mượn ấm bò lừa quỳ thở dâng hơi…”
hoặc cũng có thể cất tiếng hát:
“Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời…” hay:
“Cao cung lên khúc nhạc Thiên thần Chúa, hòa trong làn gió, nhè nhẹ vấn vương…”
Nhưng người ta không thể một mình cất lên giai điệu với ba bè của bài hợp xướng NĐMCRĐ.
Sau này khi những bài hát giáng sinh được sáng tác nhiều hơn và được phổ biến rộng rãi hơn, thì lúc đó NĐMCRĐ lại trở thành một bài hát cổ, cổ về cả năm sinh, lẫn về ca từ. Người ta chú ý đến những bài hát mới được sáng tác, giai điệu mới hơn, lời ca dễ hiểu hơn. Với những:
“Đàn ơi, cứ rung những điệu réo rắt,..
.Hỡi người dương thế, lặng nghe cung đàn…”
thì dứt khoát dễ hiểu hơn: “Tiêu thiều, nhạc thiết tiêu thiều tấu cách vô biên…”
hoặc: “Trông hang Bê Lem, ánh sáng tỏa lan tưng bừng, nghe trên không trung, tiếng hát Thiên thần vang lừng…”
vẫn hình tượng hơn: “Kiểng tinh soi sáng thâu đêm. Chói lói giữa trời nhỏ xuống Bê Lem…”
Còn một lý do nữa hơi tế nhị, đó là tân nhạc Việt Nam thường được hát với giọng Bắc, do đó những bài hát được sáng tác cho giọng Bắc hoặc với ca từ “ngoài Bắc” dễ được công chúng chấp nhận hơn. (Nói điều này e rằng có nhiều người nhận xét có tính cách cục bộ ở đây. Nhưng thực tế mà nói, đa phần các bài hát tân nhạc đều được phổ cho giọng Bắc và dù người miền nào đi nũa thì cũng phải hát với giọng Bắc.)
Nói tóm lại, NĐMCRĐ của Lm Phaolô Đoàn Quang Đạt ít được công chúng biết đến cũng là một điều dễ hiểu. Tuy nhiên nó đã đánh dấu bước khởi đầu của việc sáng tác những ca khúc cầu nguyện bằng tiếng Việt phục vụ cho giáo dân Việt. Cùng vói những bài như Trời Cao Đất Thấp, Mười Hai Cái Mến của Lm J.M. Nguyễn Văn Thích, NĐMCRĐ là một trong những nhạc phẩm tiên phong cúa nền Thánh Ca Việt Nam.
Vĩ Thanh
Nửa Đêm Mầng Chúa Ra Đời của Lm nhạc sĩ Phaolô Đoàn Quang Đạt đã phổ nhạc nhuần nhuyễn bài kinh vãn, đã khéo léo liên kết đồng dao vào làn điệu bình ca Công Giáo, vừa trong sáng, vừa dân tộc, vừa long trọng, vừa phong phú âm hưởng, khéo léo nâng tâm hồn thính giả hòa nhập vào niềm hân hoan vô bờ, đón chào Đấng Cứu Thế Giáng Sinh. Như thế, mỗi khi Nöel về chẳng lẽ chúng ta lại nỡ vô tình quên, không hợp xướng bản thánh ca giàu cảm xúc NĐMCRĐ của Lm Phao lô Đoàn Quang Đạt hay sao?
11/01/2010
Hoàng Anh & BomBo