Nhân chứng Mễ-du: Mauro Harsch, Nghệ sĩ – Trở lại – Lòng nhân đạo

Nhân chứng Mễ-du: Mauro Harsch, Nghệ sĩ – Trở lại – Lòng nhân đạo

 

Mauro Harsch sinh tại Lugano (Thuỵ sĩ) và hoàn thành chương trình âm nhạc tai học viện “Benedetto Marcello”  bên  Venice, Ý,  anh đã tốt nghiệp tai đó năm 1987. Anh đã trình diễn tại Thuỵ sĩ cũng như ở ngoại quốc, sản xuất nhiều CD’s -bán bên Âu Châu, Úc châu và Hoa-kỳ- được nhiều sự đón nhận nồng nhiệt của các nhà bình phẩm và giới thưởng ngoạn. Năm 1987, anh đã lập  hội “Thiếu Nhi Mễ-du”. Năm 1994 anh thiết lập nhóm “St. Morits Piano Festival”. Năm 2002 anh lập hội “Ars Dei” chuyên quảng bá những hoạt động của những nhạc sĩ trẻ cho một số quốc gia bên Au châu. Từù năm 1987 anh đã dậy đàn dương cầm và nhạc lý tại “Conservatorio della Svizzera Italiana”.  Anh thường là giám khảo cho các cuộc thi âm nhạc thế giới.

 

Một cuộc mạo hiểm đã biến đổi đời tôi 

 

Vào mùa hè 1984, tôi đang có cuộc nghỉ hè dài tại một làng núi nhỏ bên Thuỵ sĩ. Tôi tới đó để bắt đầu một cuộc mạo hiểm, vài tháng sau, nó biến đổi cuộc đời tôi.

Vào kỳ đó, Tôi chỉ là một tín hữu nửa vời và không tin tưởng mấy vào Giáo hội. Tôi đang đi tìm một cài gí đó mà nó có thể cho tôi nhiều ý nghĩa của cuộc sống, cái gì đó mà tôi chưa có thể tìm thấy. Tôi thường tự hỏi điều gì mới thực sự có đầy đủ ý nghĩa của sự hiện hữu của con người, và tôi biết rằng trong tự thâm tâm, thú vui âm nhạc của tôi, một đam mê từ hồi thơ ấu, chỉ là cái gì nhất thời. Ðã từ lâu tôi đã thực hành chiêm niệm và học hỏi những triết lý hiện hành khác nhau, nhưng sự thoả mãn tôi tìm thấy đều là hão huyền.

 

Trong khi đọc một tạp chí Ý, một tít lạ đã đập vào mắt tôi: “Ðức Mẹ đang hiện ra… sáu em nói đã thấy, mỗi ngày, một người Phu-Nữ  huyền bí đã cho những thông điệp của tình yêu, bình an, và cải hoán… hàng ngàn những kẻ tin, nhiều người đuợc lành bệnh, vô số đã hoán cải!…” Tôi không có thể tin nổi vào thời đại tân tiến của chúng ta lại thực sự có chỗ để loan những loại tin này sao. 

 

Vài ngày sau đó, tôi đã có một giấc mơ lạ lùng, ý nghĩa của nó thoát khỏi tôi sau một quãng thời gian … Trên một quả đồi lớn tôi đã thấy một cầu vồng rất sáng, luồng sáng của nó mang lại cho tôi một cảm giác chân phúc tuyệt vời. Ðột nhiên thị kiến này ngừng lại và có một sức mạnh đẩy tôi quỳ gối xuống, tạo cho thân xác tôi đau nhói.  Tôi thức giấc và không biết cơn đau này từ đâu ra, vì nó chỉ là một giấc mơ. Lạ quá, đầu gối tôi đang bị nhức nhối, mặc dù tôi không bị ngã. Ðây là một trong những dấu hiệu đầu mà nó đã làm tôi tin rằng Thiên Chúa, trong một thời điểm, có thể đánh động trái tim chúng ta và ban cho một sự lựa chọn để theo Ngài hay bỏ Ngài.

 

 Từ ngày đó trở đi, tôi luôn nghĩ tới sáu em thị nhân tại Mễ-du, và tôi bắt đầu bị thúc đẩy tới cuộc thăm viếng ngôi làng bên Herzegovina (Nam Tư cũ).  Với tôi, đây là một hình thức của tiếng goi nào đó.

Vào cuối tháng 11 của cùng năm, trong một tiêm sách tại Como, tôi tìm thấy một cuốn sách của nhà thần học Pháp, Réne Laurentin, tựa đề “Ðức Trinh Nữ có hiện ra tại Mễ-du không?”, Tôi liền quyết đinh đi Mễ-du. Tôi nhất quyết đi thăm nơi đó.

 

Thời gian như thể ngừng trôi

 

Cùng với một người bạn yêu nhạc, tôi đã tới  Mễ-du ngày 19/2/1985. Một công trướng lớn phía trước nhà thờ hoàn toàn trống không. Nhiệt độ giá lạnh và gió thổi rít. Tôi nghĩ là đã tới lộn xứ đạo. Khi chúng tôi vào bên trong nhà thờ, cũng rất là lạnh. Chẳng có khách hành hương nào ngoại trừ vài cư dân đang lần hạt Mân côi to tiếng.

 

Sau bao nhiêu năm không quỳ trước nhà tạm, tôi quỳ xuống… và cảm thấy bên trong tôi một niềm vui khôn tả, kép dài tới ngày nay, tôi không có ngôn từ nào để diễn tả nổi. Tôi đã nhớ lai giấc mơ. Tôi tự  hoà mình với lời kinh Kính mừng Maria và những tiếng thánh ca… tất cả tuôn chảy như dòng nước trong vắt từ một dòng suối tinh ròng.

Những nghi thức phụng vụ này, bằng tiếng Croatian, dài hơn hai tiếng đồng hồ, nhưng tôi không biết thời gian đã trôi qua. Thời gian dường như đứng lại. Ðó là bắt đầu cuộc hối cải của tôi. Tôi bắt đầu tin rằng trong nhà tạm, mà tôi đã lãng quên từ lâu, trong bí tích Thánh Thể, là nguồn mọi ân sủng, tất cả điều công chính và thánh thiện đều được tìm thấy nơi đây.

 

Sau thánh lễ, chúng tôi vào phòng áo và gặp cô Marija, môt trong những thị nhân. Một tu sĩ anh em hèn mọn nhã nhặn mời chúng tôi tới nhà xứ ngày hôm sau. Vừa khi nhận ra chúng tôi là ca nhạc sĩ, vị tu sĩ đã mời chúng tôi giúp thánh nhạc trong thời gian Mẹ hiện ra lúc 5:45 chiều hôm đó.

 .

 Vào quãng trưa chúng tôi leo lên đồi hiện ra. Một cơn gió lớn thổi mạnh. Ðường lên thì gồ ghề và cây cối ngổn ngang, nên leo lên rất là đau đớn. Những viên đá dường như biểu tượng hoá những thử thách và khó khăn mà chúng tôi gặp phải trong cuộc sống. Tôi cảm thấy một sự đầy an bình bên trong. Từ  chỗ Mẹ hiện ra chúng tôi đã chiêm ngắm thấy cảnh đẹp của toàn vùng Mễ-du. Nó giống như thời gian đang trở lại. Mọi sự quá đơn thuần và yên tĩnh, một cánh đồng xanh mát của sự an bình.

 

Lần đầu tiên trong đời tôi hiểu thế nào là cầu nguyện với con tim

 

Trong một buổi trưa, tôi tới nhà thờ để tập dượt bài hát Ave Maria của nhạc sĩ Schubert mà chúng tôi chọn để hát vào những dịp lễ lớn. Một vị tu sĩ dòng Phan-sinh cho hay: “điện bị cúp hôm nay.”..  nên không có thể xài đan phong cầm được. Tuy vậy, điện sẽ co thể có lại trong chốc lát. Buổi lần chuỗi mân côi đã bắt đầu, nhưng điện vẫn chưa có. Chúng tôi tiếp tục việc cầu nguyện trong nhà thờ. Thật là vui mừng, chỉ nửa giờ sau đó và khônc có một báo hiệu gì trước, điện đã có trở lại. Lúc 5:45 chiều, khi Jacob, Ivan và Marija đang thị kiến Me,  đàn phong cầm tấu khúc Ave Maria như đã dự định. Tôi không hiểu chuyện gì đã xảy ra với tôi vào thời gian đó. Tôi cảm nhận rằng đây là lần đầu tiên tôi hiểu rõ ý nghĩa của việc cầu nguyện với cả con tim … và tôi đã được ngập tràn cảm súc của sự tự do.

Sau khúc kết của bài Ave Maria, một đám trẻ của xứ đạo đã vây quanh tôi và họ đang cầu nguyện một cách sốt sắng, một cảnh tượng mà sau này tôi mới hiểu được.

 

 Trở lại Thuỵ-sĩ, tôi suy gẫm nhiều hơn về những gì đã xảy đến cho tôi,  đặc biệt là tại sao lại ở Mễ-du? Tại sao tôi lại phải đi tới một làng nhỏ nghèo nàn tại một nước công sản để khám phá ra những giá trị thẳm sâu đó? Tai sao tôi có thể huởng nếm được tinh thần Kitô giáo mọi chỗ ở Mễ-du? Tôi thiết nghĩ đó chỉ là tiếng đánh động thoáng qua của thần linh Chúa, một nhóm lửa chóng tàn, và những sinh hoạt bình thường sẽ trở lại trong vài tuần lễ thôi. Nhưng nó đã không phải như  tôi nghĩ. Mặc dù tôi không nói với bất cứ ai về những gì xảy đến cho tôi, các bạn bè và người thân thuộc đã thấy sự đổi mới nơi chính tôi và nơi con người nhạc sĩ nữ. Ngày tháng cứ dần trôi qua. Chỉ trong vài tháng sau đó một cái gì đó đã được nảy sinh trong đời sống thiêng liêng và ca nhạc của tôi, điều gì đó làm tôi khác hẳn với những năm trước đó. Ngoại diện chẳng có chi thay đổi, nhưng đời sống nội tâm hoàn toàn thay đổi. Chưa bao giờ truớc đó  tôi có cảm nhận chắc chắn như bây giờ rằng đức tin là một nguồn sức mạnh phải được chiếu dãi và chúng ta đòi buộc phải chiếu dãi nó và chia sẻ nó với mọi người chung quanh ta.

 

Tôi quyết định để bắt đầu làm một cái gì mới lạ

 

Tôi đã trở lại Mễ-du vào tháng 12 năm đó, và lần nữa vào mùa hè 1986. Những tình bạn thâm tình đã nảy nỡ giữa tôi và cha Slavko Barbavic

Vào tháng 3/1987, cha Slavko đã mời tôi tham dự một buổi hiện ra bên trong nhà xứ. Tôi coi đây là một ân huệ đặc biệt cho tôi, môt món quà không mong đợi. Ðây chỉ là một căn phòng nhỏ bé, nó chỉ vừa đủ chỗ cho vài người thôi. Jacob tới đó như  giờ đã đươc hẹn trước.

 

Anh ta quỳ xuống. Cuộc gặp gỡ với “Bà” liền bắt đầu. Mắt anh ta rạng ngời. Cặp môi mấp máy nhưng không ai nghe được anh nói gì. Chú bé này trong trang thái ngoài không gian và thời gian của chúng ta vừa khi em ra khỏi cái thế giới bên ngoài. Mọi sư rất là tự nhiên và đơn thuần. Mọi người đều tuyệt đối đứng nguyên tại chỗ.  Sự trầm lặng ngoại thường. Thật vậy nó như thể thời gian cũng đứng lặng yên. Sau một vài phút, Jacob trở lại trạng thái bình thường. Cuộc hiện ra chấm dứt.

 

Không ngôn từ nào có thể diễn tả được biến cố siêu nhiên này. Tôi chỉ có thể kết luận rằng trong thời gian đó tôi tin rằng Mễ-du thực sự  là một món quà của Chúa ban cho Giáo hội và nhân loại nói chung. Cũng ngày đó tôi tin cho cha Slavko rằng những cảm nghiệm của tôi tại Mê-du đã thúc đẩy  tôi vào những công việc từ thiện, nhất là với các em thiếu nhi. “Ðừng lo lắng” cha Slavko nói, “khi thời điểm tới, Ðức Mẹ sẽ chỉ cho anh một con đường để đi”.

 

 Những tháng sau đó tôi đã liên hệ với nhiều tổ chức nhân đạo, nhưng tôi cảm thấy họ hướng chiều nhiều về chính trị và chỉ có trên lý thuyết, mà tôi không thấy hợp cho lắm. Tôi ước muốn có một tổ chức không những chỉ cung cấp vật chất mà còn  nâng đỡ về mặt luân lý và tinh thần trong chiều hướng của Kitô giáo thực sự mà chính tôi đã chứng kiến tại Mễ-du. Vì thế tôi quyết đinh lập môt hội mới. Ngày 31/12/1987, tôi đã lập hội “Thiếu Nhi Mễ-du”. Hai tháng sau, hội chính thức được công nhận bởi chính quyền Thuỵ-sĩ.

 

Những công trình mới

 

Trong vòng một năm, con số mạnh thường quân của hội “Thiếu Nhi Mễ-du”  đã lên tới 600 người. Ðể thông tin rộng rãi về hội, tôi đã mời nhiều nghệ sĩ và cao nhân từ mọi tấng lớp văn hoá cũng như  tôn giáo vào ban điều hành hội. Với sự giúp đỡ của họ, chúng tôi đã tổ chức nhiều cuộc trình diễn nhạc để quyên góp tiền bên Lugano.  Một đai gia đình đã thành hình để đi cùng một hướng trong sự hợp nhất, một cách liên đới hướng về các em thiếu nhi đang cần sự giúp đỡ.

 

Công tác đầu tiên là xây một căn nhà cho các em nhỏ tại Ấn-độ (1989). Sau đó là xây nhà bên Ba-tây(1992), làm nhà “Ngôi Làng Me”ï ở Mễ-du (1995), và những công trình khác tại Lỗ-ma-ni, Madagascar, Ba-lan, Kosovo, Nga, và Ukraine.

Ðể đáp lại lời mời gọi của cha Slavko Barbavic, ngoài “Ngôi Làng Mẹ” ở Mễ-du,  cha cũng mong muốn xoa dịu bớt những hậu quả của chiến tranh bên Croatia and Bosnia-Herzegovina,  vì thế hội đã kiến thiết nhà “Germogli”. Công việc bắt đầu vào đầu năm 1995. Những đội quân của Bảo An Liên Hiệp Quốc có mặt tại Mễ-du  đãø tình nguyện giúp đào nền móng cho căn nhà này. Ngày 27/6/1995,  ngôi nhà này và 3 căn khác được sự đóng góp của các mạnh thường quân đã chính chức khánh thành. Hội vẫn tiếp tục giúp đỡ những hoạt động của “Ngôi Làng Mẹ” cũng như những công trình khác của cha Jozo Zovko tại Siroki Brijeg.

 

Ðức Trinh Nữ đã cho tôi một dấu chỉ

 

Ngày tháng trôi qua, tôi đã cảm nghiệm những giây phút vui sướng và những thời gian khó khăn, nhưng niềm tin mà tôi đã khám phá ra tại Mễ-du chưa bao giờ phai nhạt. Nhưng vào năm 1998, tôi đã phải đương đầu với nhiều những hoài nghi về những cảm nghiệm tại Mễ-du lần đầu tiên trong đời. Tôi bị  cám dô õ để suy luận mọi sự này chỉ là những điều ảo tưởng. Nhưng hai việc ngoài ý muốn đã xảy ra để chấn an tôi nên tiếp tục những gì đang làm.

 

Tôi gặp Ðức Thánh Cha (ÐTC) Gioan Phaolo II vào hai dịp khác nhau. Vào ngày 25/2/1998, (ngày Mẹ hiện ra tại Mễ-du và ban thông điệp) tôi được phép giúp lễ trong một thánh lễ tại tư phòng ÐTC, và tôi gặp ÐTC lần nữa vào ngày 20/2/1999 (ngày kỷ niệmtrở lại của tôi tại Mễ-du). Ngẫu nhiên chăng? Tôi đâu có chọn những ngày này đâu. Một cách đơn giản là không có cách chi tôi có thể chọn những ngày này được. Với tôi, đây là hai ngày trọng đại. Thêm vào những chuyện này, nó xảy ra khi tôi trên đường về nhà sau cuộc gặp ÐTC lần thứ hai, tôi lắng nghe bài dậy giáo lý của cha Livio Fanzaga trong chương trình phát thanh Maria. Nói về các cuộc hiện ra tai Fatima và Mễ-du, ngài nhần mạnh rằng: “Ðức Trinh Nữ thường ban cho chúng ta một xác quyết qua những con số, qua những ngày tháng đặc biệt!”…

 

Tôi đã nhận đuợc sự xác quyết này.

 

Hồng-Việt dich thuật từ http://www.medjugorje.org