Làm sao để được cứu rỗi?

Hỏi: nhân mùa Chay và Mùa Phục Sinh tưởng niệm công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô xin cha giải thích: nếu phép rửa đã tha hết mọi tội rồi và nhất là Chúa Kitô đã chết để cứu chuộc cho cả loài người rồi, như vậy đã đủ để mọi người được cứu rỗi chưa, hay còn phải làm gì nữa?

Trả lời:

Thiên Chúa là tình thường, là Cha rất nhân lành, là  “Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2 :4). Vì thế, Thiên Chúa đã sai Con Một mình  là Chúa Giêsu xuống trần gian làm Con Người  để “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” ( Mt 20:28).

Như thể  đủ cho chúng ta tin  chắc rằng  Thiên Chúa không muốn cho một ai phải bị lên án và hư mất đời đời vì tội lỗi.

Giáo Hội cũng dạy rằng: “Chúa Kitô đã chết cho tất cả mọi người, không trừ một ai. Công Đồng Quiercy (năm 833, DS 624) đã dạy rằng: không có,  đã không có và sẽ không có người nào mà không được Chúa Kitô chịu đau khổ vì mình.” (x. SGLGHCG, số 605)

Nghĩa là sự cứu rỗi cho con người là điều mong muốn của chính Thiên Chúa, là điều chắc chắn mà mọi tín hữu chúng ta phải tin và hy vọng, căn cứ vào lời Chúa và lời dạy trên đây  của Giáo Hội .

Tuy nhiên, cho được hưởng công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô để vào Nước Trời hưởng Thánh Nhan Chúa,   người ta cần  phải có những điều kiện sau đây:

I-Trước hết, phải được tái sinh qua Phép rửa,  vì ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.  Còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16:16) . Lại nữa: “không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thần khí” ( Ga 3:5).

  

Trên đây là chính những lời Chúa Giêsu đã nới với các Tông Đồ và với ông già Ni-cô-đê-mô  xưa về tầm quan trọng và sự cần thiết phải lãnh nhận Phép rửa để được tái sinh trong sự sống mới sau khi con người cũ đã chết vì hậu quả của tội Nguyên Tổ (original sin).Tuy nhiên, cần nói thêm một lần nữa ở đây là mặc dù Chúa nói như trên, nhưng Ngài vẫn  dành cho những người không biết Chúa và không  được rửa tội một lối thoát, nếu họ chẳng may  rơi vào hoàn cảnh không được ai nói cho biết về Chúa và được chịu  phép rửa để vào Nước Trời.

Nói rõ hơn,  những người đã sinh ra và chết  trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời,  hoặc ngay cả  sau khi Chúa sinh ra nhưng không được ai dạy bảo cho họ biết về Chúa, về Tin Mừng cứu độ   và về Phép rửa khiến họ không được rửa tội thì đó không phải là lỗi của họ, bởi  vì  “Làm sao họ tin Đấng họ không nghe? Làm sao mà  nghe nếu không có ai rao giảng ? .như Thánh Phaolô  đã quả quyết..(Rm 10: 14). Nói cách khác,  không ai có thể tự mình nhận biết có Thiên Chúa mà không cần người khác giúp lúc khởi đầu.Đó  là lý do tại sao Chúa Kitô đã chọn  và sai các Tông Đồ đi

“… khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loại thụ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu rỗi. Còn  ai không tin sẽ bị kết án. ( Mc 16:  15-16)

Như thế, phải cần phải có người rao giảng Tin Mừng của Chúa cho người khác từ ban đầu cho đến ngày nay.Đó là sứ mệnh Phúc Âm hóa thế giới mà Giáo Hội đã lãnh nhận từ Chúa Kitô qua các Thánh Tông Đồ và những người kế vị để mang Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ và mầu da ở khắp nơi trên trái đất này.

Nhưng như đã nói ở trên, nếu có những người không biết  Chúa Kitô và Phúc Âm sự sống của Người vì không ai rao giảng cho họ, thì đó không phải là lỗi của họ. Dầu vậy, nếu họ đã  sống ngay lành theo tiếng nói của lương tâm hướng dẫn,  thì họ vẫn có thể  được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, vì “Ngoài Người (Chúa Kitô) ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4: 12; 1Tm 2: 5; SGLGHCG số 1281, Lumen Gentium, số 16 )

Ngược lại, những người đã nghe Phúc Âm của Chúa, đã được tái sinh qua Phép Rửa mà không sống những cam kết khi được rửa tội là thực tâm yêu mến Chúa, yêu tha nhân  và xa lánh mọi tội lỗi, thì Phép rửa và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cũng không mang lại lợi ích thiêng liêng nào cho họ.

Nói khác đi, công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô được áp dụng không những  cho những người đã nhận biết Chúa, đã được rửa tội – và đang  sống những cam kết của Phép rửa ( Baptismal promises) mà còn áp dụng  cho cả những người không được biết Chúa và không được rửa tội  vì không ai dạy cho họ biết. Đó là trường hợp của tổ tiên Việt Nam và các dân  tộc khác trên thế  giới đã sinh ra và chết  đi trước khi Chúa Cứu Thế Giêsu ra đời, rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại. Những người này không biết Chúa và không được lãnh phép  Rửa  thì đó  hoàn toàn không vì lỗi của họ, nên Chúa không thể bất công  lên án họ vì lỗi này được. Ngược lại, họ vẫn có thể được cứu rỗi  nếu họ đã sống ngay lành  theo sự hướng dẫn  của lương tâm và có ý đi tìm Đấng Tối cao là Thiên Chúa để thi hành thánh ý Ngài như đã nói ở trên..

Đang khi còn bị treo trên Thập giá, Chúa Giêsu đã bị “một tên linh lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người : tức thì máu cùng nước chảy ra.” ( Ga 19 : 34)

Nước đó chính là nước rửa cho con người sạch mọi tội một lần nhưng không tiêu diệt hết mọi mầm mống của tội và trả lại cho con người tình trạng  “ngây thơ, công chính ban đầu” (original innocence and justice),  một tình trạng ơn phúc đặc biệt  mà Adam và Eva đã được hưởng trước ngày hai người phạm tội vì ăn trái cấm, đem lại hậu quả to lớn là vì một  người duy nhất mà tội lỗi xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người bởi vì mọi người đã phạm tội.” ( Rm 5: 12)

Nói khác đi, sự bất tuân của Adam và Eva đã đem tội và sự chết vào trần gian. Nhưng nhờ  một người duy nhất vâng phục Thiên Chúa là Chúa Kitô mà “muôn người cũng sẽ thành người công chính”“nhờ Đức Giêsu là con Người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh  em được hòa giải với Người để anh  em trở nên thánh thiện, tinh tuyển không có gì đáng trách trước mặt Người.” (Cl 1: 22) theo lời dạy của Thánh Phaolô.

Nhưng đó chỉ là viễn ảnh của niềm tin và hy vọng chứ chưa tức khắc thành sự thật ngay bây giờ cho ai,  trử khi có ai chết ngay sau khi  được rửa tội thì chắc có cơ may được hưởng ngay ơn cứu độ để vào Nước trời như Người trộm lành trước kia. Chúa Giêsu đã tha thứ mọi tội cho anh ta vì anh đã sám hối và xin thương xót trước khi chết. (Lc 23:42-43)

Nhưng nếu vẫn tiếp tục sống trên trần thế này, thì mọi người chúng ta  lại có nhiều  cơ hội để phạm tội thêm nhiều lần nữa vì bản chất yếu đuối của con người, vì gương xấu của thế gian và nhất là vì ma quỷ cám dỗ  bao lâu ta còn sống trong thân xác có ngày phải chết này.

.Mặt khác, Phép Rửa, tuy xóa một lần  mọi tội lỗi,  nhưng không tiêu diệt hết mọi mầm mống của  tội, mà vẫn còn để lại trong  con người  “một số những hậu quả của tội như những đau khổ, bệnh tật, sự chết  hoặc những yếu đuối gắn liền với sự  sống như  những yếu đuối về tính tình…và nhất là sự hướng chiều về tội lỗi mà truyền thống gọi là tình dục,  hay còn được gọi là “lò sinh ra tội lỗi (formes percati) được để lại đó cho con người phải chiến đấu chống lại nó” cho đến hơi thở cuối cùng của đời người trên trần thế này. (x. SGLGHCG số 1264)

Ngoài ra,như đã nói ở trên, còn phải kể đến  những gương xấu, những dịp tội đầy rẫy ở khắp trên trần gian này nhất là những cám dỗ mãnh liệt của ma quỉ là “thù địch của anh  em như sư tử gầm thết rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5: 8),  nhằm lôi kéo con người ra khỏi tình thương của Chúa và ơn cứu độ của Người.

Đó là tất cả  những thách đó, những nguy cơ mà con người phải đối phó sau khi được rửa tội để sống một đời sống mới theo Thần Khí hướng dẫn để được ơn cứu độ. Vì nếu “hướng đi của xác thịt là sự chết” thì “hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an.”(  Rm 8 :6)

II- Phải làm gì nữa để xứng đáng được ơn cứu rỗi?

Chúa là tình thương và công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là vô giá và đủ cho con người được cứu độ. Nhưng vì con người còn có ý muốn tự do ( free will) mà Thiên Chúa luôn tôn trọng cho con người sử dụng để hoặc sống theo Chúa “là Đường, là  Sự Thật và là sự Sống” (Ga (14: 6) hay khước từ Chúa để sống theo “văn hóa của sự chết” chối bỏ Thiên Chúa,  tôn thờ vật chất, tiền bạc  và mọi thú vui vô luân, vô đạo, gian ác, độc dữ,   bất công, bóc lột, độc tài, hà khắc …  như thực trạng của thế giới tục hóa ngày nay. Đặc biết là ở các nước Âu Mỹ , và các quốc gia chậm tiến và độc đảng cai trị, nơi không còn gì là luân lý phổ quát  (universal moral) khiến người ta coi việc giết thai nhi là hợp pháp, bán con cái cho bọn mãi dâm buôn người là việc buôn bán tự nhiên  của các cặp vợ chồng đã mất hết bản chất làm cha mẹ trong một xã hội quá suy đồi về luân lý, đạo đức. như xã hội Viêt Nam hiện nay.

Lại nữa, một tệ trạng đang được phổ biến ở các quốc gia Âu Mỹ   là  việc cho hợp thức hóa hôn nhân đồng tính (same sex mariage), một suy thoái  đạo đức nghiêm trọng về mục đích của hôn nhân và nền tảng gia đình mà Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu khi tạo dựng con người và trao cho sứ mệnh “Hãy sinh sôi nẩy nở  thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất.” (St 1: 28)

Như thế, để hưởng công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, người tín hữu phải thực tâm tỏ thiện chí sống đức tin từ trong nội tâm ra đến hành động cụ thể bên ngoài để cộng tác với ơn thánh trong nỗ lực thánh hóa bản thân và giúp  thánh hóa người khác qua gương sống chứng nhân của mình.

Sự cộng tác với ơn thánh thật vô cùng cần thiết, vì nếu không thì, từ ban đầu  Thiên Chúa  đã không truyền cho dân Do Thái nói riêng và con người ngày nay nói chung Mười Điều Răn của Chúa mà ông Mô-Sê đã long trọng nói với dân Do Thái xưa như sau :

“ Hãy xem: hôm nay tôi đưa ra cho anh  em chọn : hoặc được chúc phúc, hoặc bị nguyền rủa.: Anh  em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em mà tôi truyền cho anh  em hôm nay. Anh  em sẽ bị nguyền rủa nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA…” ( Đnl 11: 26-28)

Vâng nghe những mệnh lệnh của Thiên Chúa có nghĩa là thi hành những Điều Răn Người đã truyền cho ta phải tuân giữ để được chúc phúc và được cứu độ  nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô. Thiên Chúa ban những lề luật đó không vì lợi ích  nào của  riêng của Ngài,  mà vì lợi ích của con người mà thôi. Vì nếu không có lề luật nào ràng buộc, để con người tự do chém giết, trộm cắp, lấy của người khác làm của riêng tư, cướp vợ ,giật chồng của nhau… thì thế giới này sẽ đi về đâu ? Có giới răn của Chúa mà người ta còn vi phạm, còn làm những sự dữ  ở khắp nơi từ xưa đến nay, huống chi là nếu không có lề luật nào chi phối,  thì xã hội loài người đã bị tiêu diệt từ lâu rồi. Do đó, chúng ta phải cám ơn Chúa về những lề luật mà Người đã truyền cho con người phải thi hành để được chúc phúc ngay trong cuộc sống trên trần gian này, trước khi được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Thật vậy, những ai đã được rửa tội rồi cũng ví như dân Do Thái xưa đã vượt qua Biển Đỏ dưới sự lãnh đạo của ông Mô-sê  để trở về quê hương và tiến vào Đất Hứa. Nhưng họ đã không được vào đất này  ngay mà còn phải sống trong sa mạc mấy chục năm để được thử thách về lòng tin yêu Thiên Chúa của họ. Khi sống trong hoang  địa, họ đã chịu thiếu thốn mọi sự, từ thức ăn  đến nước uống. Vì thế họ đã kêu trách  Chúa  và ông Mai-sen về những gian khổ mà họ phải chịu đựng .  Và tệ hại hơn nữa họ đã đúc Con Bê bằng  vàng và sụp lậy nó như vị thần đã đưa họ ra khỏi ách nô lệ bên Ai Cập! (Xh 32:  1-6)

Thiên Chúa đã nổi giận và muốn tiêu diệt đám dân vô ân này,  nhưng nhờ ông Mô Sê khẩn cầu thay cho họ mà Thiên Chúa đã thương không giáng phạt dân Người như Người đã đe.” (Xh 32: 14)

Ngày nay, là dân Tân Ước, chúng ta là dân mới của Thiên Chúa  đã được tái sinh qua Phép rửa, tức là cũng đi qua nước như dân Do Thái xưa vượt qua Biển đỏ để vào đất tự do,  thoát ách nô lệ bên Ai Cập. Phép rửa cũng giải phóng cho con người khỏi  ách nô lệ tội lỗi để sống đời mới theo Thần Khí hướng dẫn để được cứu độ. Nhưng cũng như Dân Do Thái xưa phải sống trong hoang địa 40 năm trước khi được vào Đất Hứa là đất Ca-na-an “tràn trề sữa và mật” (Ds 13:27), dân Tân Ước ngày nay cũng phải sống trong trần thế này một thời gian dài ngắn tùy số phận của mỗi người . Nghĩa là sau khi được tái sinh qua Phép Rửa , chúng ta chưa vào ngay Đất Hứa  là Thiên Đàng  mà còn phải  “lưu vong” trong sa mạc  trần thế này để được thử thách về  đức tin, đức cậy và đức mến.

Nếu đức tin đã được chứng minh cụ thể bằng đức mến nồng nàn, nghĩa là thực tâm yêu mến Chúa trên hết mọi sự  và tuân giữ các Giới Răn của Người, yêu mến tha nhân như Chúa Kitô đã dạy cộng thêm quyết tâm xa lánh mọi tội lỗi tức là thi hành những cam kết khi được rửa tội thì  “anh  em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa  giữa  một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh  em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời…” như Thánh Phaolô đã dạy. (Pl 2:15) 

Nói khác đi, những ai đã và đang cố gắng sống theo đường lối của Chúa, chống lại những đòi hỏi bất chính của bản năng, gương xấu của trần gian và mưu chước cám dỗ của ma quỉ,  thì đang cộng tác hữu hiệu với ơn thánh để được cứu rỗi nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô.

Khi sạch tội,  con người  sống trong ơn phúc của Thiên Chúa, nghĩa  là sống  ơn cứu độ ngay ở  trần thế này. Ngược lại, nếu không có thiện chí cộng tác của cá nhân với ơn Chúa  mà buông mình sống theo “văn hóa của sự chết” thì ơn tái sinh của Phép Rửa sẽ trở nên vô ích và Chúa cũng không thể cứu ai thiếu  thiện chí đó.

Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy  Lậy Chúa, Lậy Chúa  là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên cao mới được vào mà thôi.” ( Mt 7 :21)

 

Thi hành ý Cha trên trời có nghĩa là yêu mến Người trên hết mọi sự thể hiện cụ thể qua việc tuân thủ những Điều Răn của Chúa,

vì “ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy

………………………………………

Nếu anh  em giữ các điều răn của Thầy,

anh   em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy

như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy

và ở lại trong tình thương của Người.” (Ga  14: 23; 15: 10)

Như thế, thi hành các luật điều về yêu thuơng, công bình, bác ái, xa lánh tội lỗi  và sống thánh thiện là thi hành ý muốn của Cha trên trời, Đấng yêu thương con người đến nỗi đã “sai chính  Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội cho chúng ta” (Rm 8 :3). Và  chính nhờ “máu Thánh Tử đổ ra mà chúng ta được cứu chuộc”. ( Ep 1 :7)

Tóm lại, Phép rửa  và công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô có giá trị cứu rỗi tuyệt đối,  nhưng chỉ hữu ích cho những ai có thiện chí cộng tác với ơn  Chúa sau khi được rửa tội bằng quyết tâm sống ơn tái sinh của Phép Rửa là phải cởi  bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để cho Thần Khí đổi mới tâm trí anh  em và phải mặc lấy con người mới  là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” như Thánh Phaolô đã dạy. ( Ep 4: 22-24)

Nói khác đi,  nếu con người không có quyết tâm chừa bỏ mọi tội lỗi và thực thi đức ái nồng nàn thì không những Phép rửa mà cả công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô cũng sẽ trở nên vô ích,  vì Thiên Chúa phải tôn trọng tự do của con người chứ không bắt buộc  ai phải yêu mến và nhận ơn cứu rỗi của Người. Người chỉ mời gọi và con người có tự do để đáp trả hoặc ưng thuận hay khước từ lời mời gọi đó.

Sau hết, không thể viện cớ Chúa nhân từ và  hay tha thứ để cứ  tự do sống theo thế gian và xác thịt.

Chúa đầy lòng xót thương: đúng. Nhưng nếu con người lợi dụng tình thương của Chúa  để đi hàng hai, nửa nóng nửa lạnh thì “Ta sắp mửa ngươi  ra khỏi miệng Ta” như lời Người đã cảnh cáo trong sách Khải Huyền. (Kh 3:16)

Đó là tất cả  những gì chúng ta cần suy niệm về tình thương  tha thứ của Thiên Chúa, về công nghiệp cứu chuộc vô giá ( invaluable) của Chúa Kitô và những gì ta phải làm để cộng tác với ơn Chúa hầu được hưởng ơn cứu độ của Người.Amen.

Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.

LM Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn